Tin nóng
23.09.2015
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) biên soạn tài liệu: Một số nội dung liên quan đến biên soạn Luật Thống kê (sửa đổi) nhằm làm rõ hơn một số nội dung trong dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, góp ý vào dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) của Đại biểu Quốc hội.
Ông Nguyễn Văn Liệu, Phó TCT TCTK, Tổ trưởng Tổ biên tập Luật Thống kê sửa đổi, trình bày báo cáo

Nội dung 1: Chỉ số đánh giá năng lực thống kê

1. Chỉ số đánh giá năng lực thống kê quốc gia do Ngân hàng Thế giới xây dựng. Chỉ số này được tính trên thang điểm 100 và là số bình quân cộng của 3 chỉ số thành phần: (1) Chỉ số phương pháp luận thống kê; (2) Chỉ số nguồn số liệu và (3) Chỉ số định kỳ và kịp thời.

2. Mỗi chỉ số thành phần cũng tính theo thang điểm 100 và được biên soạn từ một số chỉ tiêu cụ thể, mỗi chỉ tiêu cụ thể có điểm từ 0 đến 1 điểm và quyền số cho từng chỉ tiêu (quyền số 10 hoặc 20), tùy vào mức độ quan trọng của mỗi chỉ tiêu.

Cụ thể:  Chỉ số phương pháp luận thống kê được biên soạn từ 10 chỉ tiêu: 1. Tài khoản quốc gia năm gốc; 2. Cán cân thanh toán hướng dẫn sử dụng;        3. Báo cáo tình trạng nợ nước ngoài; 4. Chỉ số giá tiêu dùng năm gốc; 5. Chỉ số sản phẩm công nghiệp; 6. Giá xuất/nhập khẩu; 7. Khái niệm kế toán tài chính Chính phủ; 8. Báo cáo truy nhập tới UNESCO; 9. Báo cáo tiêm chủng với WHO; 10. Những tiêu chuẩn phổ biến những dữ liệu cụ thể của IMF.

Chỉ số nguồn số liệu được biên soạn từ 5 chỉ tiêu: 1. Chu kỳ tổng điều tra dân số; 2. Chu kỳ tổng điều tra nông nghiệp; 3. Chu kỳ khảo sát liên quan nghèo (IES, LSMS,…); 4. Chu kỳ khảo sát sức khỏe (DHS, MICS, khảo sát định kỳ,…); 5. Hoàn thành các hệ thống đăng ký quan trọng.

Chỉ số định kỳ và kịp thời được biên soạn từ 10 chỉ tiêu: 1. Định kỳ thu nhập nghèo; 2. Suy dinh dưỡng trẻ em; 3. Tử vong ở trẻ em; 4. Tiêm chủng; 5. HIV/AIDS; 6.  Sức khỏe bà mẹ; 7. Bình đẳng giới trong giáo dục; 8. Hoàn thành tiểu học; 9. Tiếp cận nguồn nước; 10. Tăng GDP.

3. Đánh giá Thống kê Việt Nam  

- Năm 2010, Việt Nam đã sử dụng Chỉ số năng lực thống kê trong đánh giá thực trạng Thống kê Việt Nam để từ đó xây dựng chiến lược phát triển thống kê và các văn bản pháp quy tạo điều kiện nâng cao năng lực Thống kê Việt Nam. Theo đó, Chỉ số năng lực thống kê của nước ta đạt 61 điểm.

- Năm 2013, Chỉ số năng lực thống kê của nước ta đạt 71 điểm, cao hơn 05 điểm so với Chỉ số năng lực thống kê trung bình của thế giới (66 điểm) và xếp trên 84 quốc gia về Chỉ số năng lực thống kê. Quốc gia có Chỉ số năng lực thống kê cao nhất thế giới là Chile với 96 điểm, Somalia là quốc gia có Chỉ số năng lực thống kê thấp nhất thế giới với 24 điểm.

Nội dung 2: Nâng cao năng lực thống kê Việt Nam trong Luật Thống kê (sửa đổi)

Luật Thống kê (sửa đổi) quy định về nâng cao năng lực thống kê từ hệ thống thông tin, hệ thống chỉ tiêu, nguồn số liệu, các hình thức thu thập cho đến xử lý, phổ biến và khả năng tiếp cận số liệu thống kê (định kỳ và kịp thời cung cấp số liệu theo chính sách phổ biến thông tin thống kê nhà nước), cụ thể được quy định tại các nội dung sau:

1. Nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê và sử dụng thông tin thống kê (Điều 5) và quy trình nghiệp vụ thống kê (khoản 1 Điều 4).

2. Hệ thống thông tin thống kê nhà nước (từ Điều 12 đến Điều 25)

3. Thu thập thông tin thống kê nhà nước (từ Điều 26 đến Điều 49).

4. Phân tích và dự báo thống kê, công bố và phổ biến thông tin thống kê nhà nước (từ Điều 50 đến Điều 55).

5. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp thống kê tiên tiến, công nghệ thông tin - truyền thông và hợp tác quốc tế trong hoạt động thống kê nhà nước (từ Điều 56 đến Điều 58).

6. Sử dụng thông tin thống kê nhà nước (từ Điều 59 đến Điều 63).

Nội dung 3: Các tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê

Thống kê Việt Nam và thống kê quốc tế sử dụng 6 tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê: Tính phù hợp; Tính chính xác; Tính kịp thời; Khả năng tiếp cận; Khả năng giải thích và Tính chặt chẽ.

1. Tính phù hợp của số liệu thống kê được thể hiện qua mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của người sử dụng.

2. Tính chính xác của số liệu thể hiện qua mức độ phản ánh sát thực các hiện tượng kinh tế, xã hội của các chỉ tiêu thống kê.

3. Tính kịp thời của số liệu thống kê biểu thị độ trễ về thời gian giữa thời kỳ hay thời điểm số liệu thống kê phản ánh với thời điểm công bố số liệu.

4. Khả năng tiếp cận của số liệu thống kê thể hiện mức độ dễ dàng để có được số liệu từ các cơ quan thống kê. Khả năng tiếp cận thể hiện ở hai khía cạnh: (i) mức độ dễ dàng để có thể xác minh được số liệu thống kê cần có và sự phù hợp của các phương thức tiếp cận số liệu và (ii) số liệu thống kê được biên soạn nhằm mục đích hướng tới nhu cầu của người sử dụng và phổ biến rộng rãi dưới nhiều hình thức.

5. Khả năng giải thích của số liệu thống kê phản ánh mức độ sẵn có của những thông tin bổ sung và các bảng giải thích cần thiết giúp cho người dùng tin hiểu và sử dụng số liệu một cách chính xác và hợp lý, bao gồm: khái niệm của chỉ tiêu, các phương pháp phân loại đang áp dụng, phương pháp thu thập và xử lý thông tin, phương pháp luận dùng trong biên soạn chỉ tiêu và chỉ rõ mức độ chính xác của số liệu thông tin thống kê.

6. Tính chặt chẽ của số liệu thống kê phản ánh mức độ kết hợp số liệu từ các nguồn khác nhau để đưa vào cùng một lược đồ số liệu rộng hơn theo thời gian và không gian.

Nội dung 4: Quy định về chất lượng thông tin thống kê trong Luật Thống kê (sửa đổi)

1. Tính phù hợp của số liệu thống kê thể hiện qua các quy định: Hệ thống thông tin thống kê nhà nước (từ Điều 12 đến Điều 25); Tham khảo ý kiến người sử dụng thông tin thống kê nhà nước (Điều 63).

2. Tính chính xác của số liệu thể hiện qua các quy định: Nguyên tắc cơ bản (điểm a khoản 1 Điều 5); Hệ thống chỉ tiêu thống kê (từ Điều 16 đến Điều 21); Thẩm định số liệu thống kê của bộ, ngành trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (Điều 53).

3. Tính kịp thời của số liệu thống kê thể hiện qua các quy định: Nguyên tắc cơ bản (điểm a khoản 1 Điều 5); Lịch công bố thông tin thống kê nhà nước (Điều 54).

4. Khả năng tiếp cận của số liệu thống kê thể hiện qua các quy định:      Lịch công bố thông tin thống kê nhà nước (Điều 54); Phổ biến thông tin thống kê nhà nước (Điều 55); Sử dụng dữ liệu hành chính cho hoạt động thống kê nhà nước (Điều 36); Sử dụng cơ sở dữ liệu thống kê do Cơ quan Thống kê Trung ương quản lý (Điều 40).

5. Khả năng giải thích của số liệu thống kê biểu hiện qua các quy định:  Khái niệm, nội dung, phương pháp tính, nguồn số liệu của từng chỉ tiêu thống kê (khoản 9 Điều 4); Biên soạn theo quy trình sản xuất thông tin thống kê (khoản 1 Điều 4), quy định này chỉ rõ khả năng ứng dụng CNTT vào hoạt động sản xuất thông tin thống kê; Phân loại thống kê (khoản 10 Điều 4, Điều 22); Phương pháp thu thập và xử lý thông tin, phương pháp luận dùng trong biên soạn chỉ tiêu và chỉ rõ mức độ chính xác của số liệu thông tin thống kê (Điều 5,…).

6. Tính chặt chẽ của số liệu thống kê biểu hiện qua các quy định: Biên soạn theo quy trình sản xuất thông tin thống kê (khoản 1 Điều 4), quy định này chỉ rõ khả năng ứng dụng CNTT vào hoạt động sản xuất thông tin thống kê.

 Nội dung 5: Tính minh bạch của số liệu thống kê

Tính minh bạch của số liệu thống kê thể hiện ở 07 điểm sau:

1. Minh bạch về nguồn thông tin trực tiếp từ đối tượng cung cấp thông tin;

2. Minh bạch về khái niệm, nội dung, phương pháp tính;

3. Minh bạch về phương pháp thu thập, tổng hợp, xử lý số liệu;

4. Minh bạch trong việc công bố số liệu: đối tượng công bố, lịch công bố, phương thức công bố và phổ biến số liệu;

5. Minh bạch trong giải trình số liệu: khi thay đổi phải có giải trình, giải thích và công bố về số liệu thay đổi;

6. Minh bạch và sẵn sàng trong giải thích thắc mắc về số liệu thống kê: thể hiện trong việc cơ quan thống kê sẵn sàng giải thích các thắc mắc của người sử dụng số liệu thống kê;

7. Minh bạch và sẵn sàng tiếp thu những phản hồi tích cực của người sử dụng, cơ quan thống kê đưa ra những biện pháp khắc phục và quy trình giải quyết.

Nội dung 6: Quy định của Luật Thống kê (sửa đổi) thể hiện tính minh bạch của số liệu thống kê

Luật Thống kê (sửa đổi) quy định về tính minh bạch của số liệu thống kê như sau:

1. Minh bạch về nguồn thông tin trực tiếp từ đối tượng cung cấp thông tin (khoản 1 Điều 2).

2. Minh bạch về khái niệm, nội dung, phương pháp tính (khoản 9, Điều 4).

3. Minh bạch về phương pháp thu thập, tổng hợp, xử lý số liệu (khoản 1, 9 Điều 4 và Chương III).

4. Minh bạch trong việc công bố số liệu (Điều 54, Điều 55).

5. Minh bạch trong giải trình, giải thích thắc mắc số liệu và tiếp thu những phản hồi tích cực (Điều 53).

 Nội dung 7: Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng Luật Thống kê (sửa đổi)

Trong quá trình xây dựng Luật Thống kê (sửa đổi), Ban Soạn thảo đã nghiên cứu Luật Thống kê các nước trên thế giới và đã tiếp thu vào Dự thảo các nội dung cơ bản sau:

1. Mười nguyên tắc cơ bản của Thống kê Liên hợp quốc.

2. Luật Thống kê mẫu của Liên hợp quốc.

3. Một số quy định cụ thể của một số Luật Thống kê các nước trên thế giới (Hàn Quốc, Nhật Bản, Canada, Mông Cổ, Hunggari,…).

Nội dung 8: Tiếp thu mười nguyên tắc cơ bản của Thống kê Liên hợp quốc vào dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi)

1. Nguyên tắc thứ nhất

Thống kê nhà nước là một yếu tố không thể thiếu được trong hệ thống thông tin của một xã hội dân chủ, cung cấp cho các cơ quan nhà nước, các thành phần kinh tế và cho công chúng những dữ liệu liên quan đến tình hình kinh tế, xã hội, dân số, môi trường.

Dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) đã xác định tầm quan trọng của hoạt động thống kê cũng như mục đích của việc ban hành Luật Thống kê (sửa đổi): hoạt động thống kê nhà nước nhằm cung cấp thông tin thống kê đáp ứng yêu cầu đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch, chính sách, quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân.

2. Nguyên tắc thứ hai

Duy trì lòng tin của công chúng vào thông tin thống kê nhà nước, các cơ quan thống kê khi xác định phương pháp, quy trình thu thập, xử lý, lưu trữ và giới thiệu các dữ liệu thống kê, chỉ được dựa trên những tiêu chí thuần túy mang tính chuyên môn, những nguyên tắc khoa học và những quy phạm đạo đức nghề nghiệp.

Dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) đã thể hiện rõ trong việc quy định hệ thống thông tin thống kê nhà nước, các quy định mang tính chuyên môn, nghiệp vụ về chế độ báo cáo, chế độ điều tra, công bố thông tin thống kê…

Dự thảo Luật lần này tập trung quy định về công tác phối hợp, chia sẻ thông tin thống kê giữa những người sản xuất thông tin, giữa người sản xuất thông tin và người sử dụng thông tin thống kê; sự tin cậy đối với thông tin thống kê của người dùng tin.

3. Nguyên tắc thứ ba

Tạo điều kiện cho việc hiểu đúng nội dung các dữ liệu, các cơ quan thống kê phải cung cấp những thông tin cần thiết trên cơ sở chuẩn mực về chuyên môn, liên quan đến nguồn thông tin, phương pháp và quy trình thực hiện của cơ quan thống kê.

Nguyên tắc này cũng đã được thể hiện trong Dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) qua các điều, khoản quy định việc giải thích, khái niệm, nội dung, phương pháp tính, nguồn số liệu của từng chỉ tiêu trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia; Hệ thống chỉ tiêu cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, chỉ tiêu phát triển giới, chỉ tiêu đánh giá phát triển nguồn nhân lực…

4. Nguyên tắc thứ tư

Các cơ quan thống kê có quyền đưa ra những nhận xét về các trường hợp giải thích sai nội dung của các dữ liệu thống kê và các hành vi sử dụng mang tính lạm dụng đối với các dữ liệu thống kê.

Nguyên tắc này chưa được phổ biến trong hoạt động thống kê Việt Nam, đặc biệt tại Cơ quan Thống kê Trung ương. Dự thảo Luật lần này tập trung quy định cụ thể để nâng cao vị thế của ngành Thống kê: Thẩm định hệ thống chỉ tiêu thống kê bộ, ngành (Điều 19); Thẩm định phân loại thống kê ngành, lĩnh vực (Điều 25); Thẩm định phương án điều tra thống kê (cả trong và ngoài Chương trình điều tra thống kê quốc gia) do bộ, ngành quyết định (Điều 31); Thẩm định chế độ báo cáo thống kê cấp bộ, ngành (Điều 49); Thẩm định số liệu thống kê của bộ, ngành trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (Điều 53); Trách nhiệm của Cơ quan Thống kê Trung ương trong tổ chức thực hiện điều tra thống kê trong Chương trình điều tra thống kê quốc gia (Điều 35); Trách nhiệm và quyền hạn của Cơ quan Thống kê Trung ương trong việc sử dụng số liệu, thông tin thống kê nhà nước (Điều 62).

5. Nguyên tắc thứ năm

Các dữ liệu được sử dụng vào mục đích thống kê có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau qua điều tra thống kê hay từ hồ sơ hành chính. Cơ quan thống kê phải lựa chọn nguồn dữ liệu trên cơ sở chất lượng dữ liệu mà nguồn đó có thể cung cấp, dựa trên tính thời sự của dữ liệu, chi phí bỏ ra cũng như những phiền hà gây ra cho đối tượng cần thu thập dữ liệu.

Đối với nguyên tắc này, trên thực tế Thống kê Việt Nam cũng đang tiến hành và được quy định cụ thể tại Điều 23 Luật Thống kê năm 2003: “Quyền khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu thống kê”.

Dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) lần này tập trung quy định về điều tra thống kê nhằm hạn chế trùng chéo về thông tin, đặc biệt có sự khác biệt về số liệu giữa các bộ, ngành và Cơ quan Thống kê Trung ương; giữa trung ương và địa phương.

6. Nguyên tắc thứ sáu

Cơ quan thống kê phải giữ bí mật về dữ liệu cá nhân, thể nhân khi chưa được đồng ý của cá nhân và thể nhân đó cũng như chỉ sử dụng dữ liệu đó vào mục đích thống kê.

Nguyên tắc này đã được thể hiện trong Dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) tại các quy định về hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thống kê và sử dụng thông tin thống kê (Điều 10); xử lý vi phạm (Điều 11).

Trong các văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định về công tác tuyên truyền, chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm.

7. Nguyên tắc thứ bảy

Các văn bản pháp luật quy định về hoạt động của hệ thống thống kê phải được công bố công khai cho người dân biết.

Về nguyên tắc này, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung đã quy định rõ và thông báo công khai dưới nhiều hình thức thông tin đại chúng được coi là hoạt động tuyên truyền, phổ biến.

8. Nguyên tắc thứ tám

Trong mỗi quốc gia, cần có sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thống kê, bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả của hệ thống thống kê.

Đối với nguyên tắc này, trong Luật Thống kê năm 2003 quy định mô hình tổ chức thống kê Việt Nam là mô hình tập trung kết hợp với phân tán. Hệ thống tổ chức thống kê nhà nước bao gồm: hệ thống tổ chức tập trung và tổ chức thống kê bộ, ngành. Hệ thống thống kê tập trung được tổ chức theo ngành dọc gồm Cơ quan Thống kê Trung ương và các cơ quan thống kê địa phương. Hoạt động thống kê của hệ thống tập trung được vận hành tương đối tốt.

Dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) tiếp tục quy định mô hình tổ chức của thống kê Việt Nam như Luật Thống kê năm 2003 và bổ sung quy định về điều phối, chia sẻ thông tin thống kê với bộ, ngành; bổ sung nhiệm vụ thẩm định các nghiệp vụ, chuyên môn thống kê của Cơ quan thống kê Trung ương đối với thống kê bộ, ngành, nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của Hệ thống thống kê Việt Nam.

9. Nguyên tắc thứ chín

Các cơ quan thống kê quốc gia sử dụng khái niệm, các bảng phân loại và các phương pháp đã được hình thành trên phạm vi quốc tế, bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả của hệ thống thống kê ở mọi cấp độ.

Vấn đề này, Dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) đã quy định trong nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê và sử dụng thông tin thống kê: Thống nhất về nghiệp vụ, không trùng lặp, chồng chéo; Thông tin thống kê phải so sánh được,...(Điều 5).

10.  Nguyên tắc thứ mười

Hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực thống kê sẽ góp phần cải thiện hiệu quả của các hệ thống thống kê nhà nước của tất cả các quốc gia. Nguyên tắc này cũng đã thể hiện trong nhiều hoạt động hợp tác của thống kê Việt Nam.

Về nguyên tắc này, dự thảo Luật Thống kê (sửa đổi) đã bổ sung những quy định nhằm tăng cường năng lực thống kê quốc gia, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê, đưa thống kê Việt Nam hội nhập đầy đủ và sâu rộng với cộng đồng thống kê khu vực và thế giới: đưa mô hình 7 bước sản xuất thông tin thống kê vào các nội dung quan trọng của Luật trên cơ sở tham khảo các mô hình sản xuất thông tin thống kê của Thống kê Liệp hợp quốc (GSPBM), Thống kê Châu Âu (Eurostat), Thống kê Thụy Điển,…; Quy định Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và phân loại thống kê quốc gia được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam; Quy định hợp tác quốc tế về thống kê nhà nước nhằm bảo đảm các số liệu thống kê đáp ứng yêu cầu so sánh quốc tế, nâng cao vị thế thống kê Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Nội dung 9: Mô hình thống kê trên thế giới

Tùy thuộc vào hệ thống chính trị của mỗi quốc gia mà mô hình thống kê được quy định khác nhau, hiện nay trên thế giới có 2 mô hình cơ bản sau:

1. Thống kê tập trung: Hệ thống thống kê tập trung là cơ quan độc lập và được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến vùng, địa phương. Cơ quan thống kê hoạt động theo cơ chế tập trung. Cơ quan thống kê vùng, địa phương có nhiệm vụ thu thập số liệu, có xử lý kết quả điều tra nhưng không nhiều, chủ yếu gửi về cơ quan thống kê Trung ương để xử lý số liệu. Sản xuất số liệu tại cơ quan thống kê Trung ương mang tính tập trung cao. Mô hình này có ưu điểm và hạn chế sau:

- Ưu điểm:

(1) Phù hợp cho việc quản lý công tác thống kê một cách thống nhất từ trung ương đến địa phương;

(2) Thể hiện tính phù hợp đối với hệ thống chính trị được chia thành nhiều cấp;

(3) Có khả năng hoạch định và phối hợp trên toàn bộ hệ thống thống kê;

(4) Có khả năng thiết lập các ưu tiên dài hạn và cấp ngân sách cho các ưu tiên này;

(5) Cung cấp số liệu thống kê theo cơ chế 1 cửa;

(6) Tạo điều kiện cho việc chia sẻ thông tin và công nghệ thông tin chung;

(7) Tập trung tổ chức cho các vấn đề thống kê, trong đó chú trọng vào tính toàn diện, khách quan cũng như các tính chất chung của công việc;

(8) Có thể tập trung được các kỹ năng thống kê hữu ích và xây dựng một trung tâm tài năng.

- Hạn chế:

(1) Mô hình thống kê tập trung không đáp ứng được nhu cầu số liệu phục vụ quản lý theo ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các số liệu có tính chất chuyên ngành, chuyên sâu;

(2) Một trong những điểm bất cập của hệ thống này là tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ và tính khách quan của số liệu thống kê khi có quan ngại cho rằng có sự can thiệp chính trị vào công tác thống kê;

(3) Bị tách rời khỏi đối tượng người dùng chủ yếu trong Chính phủ, thiếu tính phản hồi;

(4) Cần phải thuyết phục các nhà sản xuất số liệu khác để hợp tác cùng nhau;

(5) Phải cạnh tranh giữa các ưu tiên do nguồn lực có hạn;

(6) Văn phòng trung tâm từ xa không thể kiểm soát hoàn toàn các vấn đề của hệ thống hồ sơ hành chính;

(7) Cần có phạm vi rộng về kiến thức chuyên môn cần thiết trong nội bộ.

2. Thống kê phân tán: Mỗi bộ, ngành hoặc tổ chức phi Chính phủ có trách nhiệm biên soạn số liệu thống kê khác nhau, liên quan đến lĩnh vực cụ thể của từng bộ, ngành. Mô hình này có ưu điểm và hạn chế sau:

- Ưu điểm:

(1) Phù hợp với những đất nước nhỏ, có trình độ phát triển cao;

(2) Mô hình gọn nhẹ, chuyên nghiệp;

(3) Có liên kết thống kê mạnh mẽ với các hệ thống thông tin và quản lý hành chính;

(4) Có khả năng quản lý tốt hơn chất lượng của dữ liệu từ các nguồn hành chính;

(5) Số liệu thống kê địa phương dễ tổ chức hơn;

(6) Dễ kiểm soát số liệu thống kê bộ, ngành.

- Hạn chế:

(1) Khi áp dụng ở nước có quy mô lớn, đang phát triển dễ dẫn đến tình trạng thừa, bỏ sót và mâu thuẫn về số liệu thống kê do các tổ chức khác nhau biên soạn có thể do ảnh hưởng phân cấp;

(2) Số liệu không có sự liên kết giữa các ngành, lĩnh vực do sử dụng phương pháp, chuẩn mực không thống nhất;

(3) Dễ gặp các áp lực chính trị; khó thiết lập các tiêu chuẩn chung;

(4) Nằm ngoài các hoạt động chính của cơ quan trung ương;

(5) Việc chia sẻ dữ liệu có thể gặp khó khăn.

Nội dung 10:  Mô hình Thống kê Việt Nam

Mô hình Thống kê Việt Nam là mô hình tập trung kết hợp với phân tán. Mô hình này kết hợp chặt chẽ giữa Hệ thống thống kê tập trung của Cơ quan thống kê Trung ương với hệ thống thống kê phân tán ở các bộ, ngành. Những công chức thống kê của Hệ thống thống kê tập trung không chỉ bố trí theo ngành dọc tới các vùng, miền, địa phương mà còn bố trí làm việc tại một số vị trí trong tổ chức thống kê bộ, ngành. Mô hình có ưu điểm và hạn chế sau:

- Ưu điểm: Mô hình này kế thừa được ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của mô hình thống kê tập trung và mô hình thống kê phân tán. Công tác thống kê được quản lý một cách thống nhất từ trung ương đến địa phương và có sự phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa hệ thống thống kê tập trung và thống kê bộ, ngành.

- Hạn chế: Để vận hành được mô hình thống kê này đòi hỏi:

(1) Lãnh đạo các cấp phải có nhận thức đầy đủ về vai trò của thống kê và vai trò của chính bản thân họ trong công tác thống kê. Hơn nữa cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hệ thống thống kê tập trung và thống kê phân tán tại bộ, ngành.

(2) Phải xây dựng hệ thống tăng cường mối quan hệ với người cung cấp thông tin và tìm hiểu nhu cầu của người dùng tin. Cần tăng cường phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin trong công tác thống kê.

Điểm đặc biệt là vị trí của cơ quan thống kê Trung ương không phụ thuộc vào mô hình tổ chức thống kê. Ở các nước khác nhau, vị trí của cơ quan thống kê Trung ương có sự khác nhau và cũng thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử cụ thể của từng nước. Trên thế giới, vị trí của cơ quan thống kê Trung ương có thể là: Cơ quan ngang Bộ, trực thuộc Chính phủ, trực thuộc Tổng thống, trực thuộc Bộ (Việt Nam, Pháp, Thụy Điển, Na Uy…).

Theo đó, Hệ thống thống kê Việt Nam bao gồm: (1) Hệ thống thống kê tập trung và (2) Tổ chức thống kê bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước.

- Hệ thống thống kê tập trung là hệ thống thống kê được tổ chức theo ngành dọc gồm Cơ quan Thống kê Trung ương và các cơ quan thống kê địa phương.

- Tổ chức thống kê bộ, ngành được thành lập căn cứ vào Nghị định số 03/2010/NĐ-CP ngày 13/01/2010 của Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức thống kê bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (gọi chung là thống kê bộ, ngành).

Nội dung 11: Tính ưu việt của mô hình Thống kê Việt Nam

- Dễ dàng áp dụng đồng bộ, thống nhất các chuẩn mực thống kê quốc tế cũng như áp dụng thành tựu công nghệ thông tin và truyền thông trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích, công bố và lưu trữ số liệu thống kê trong toàn bộ Hệ thống thống kê nhà nước.

- Phù hợp với hệ thống quản lý 4 cấp ở Việt Nam (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) và phân cấp quản lý theo lãnh thổ và theo ngành, lĩnh vực. Với mô hình này, Hệ thống thống kê sẽ bao quát toàn diện các lĩnh vực và bao quát toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Tính ưu việt của hệ thống thể hiện thông qua thông tin thu thập sẽ:

(1) Phục vụ kịp thời nhu cầu thông tin của lãnh đạo, điều hành ở cấp Trung ương thông qua việc phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa Cơ quan Thống kê Trung ương và bộ, ngành trong việc thu thập, tổng hợp, công bố các chỉ tiêu thống kê quốc gia.

(2) Phục vụ kịp thời nhu cầu thông tin của lãnh đạo, điều hành của các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) thông qua việc phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa Cơ quan thống kê Trung ương và bộ, ngành trong việc thu thập, tổng hợp, công bố các chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

(3) Phục vụ kịp thời nhu cầu thông tin của lãnh đạo bộ, ngành đối với những thông tin thuộc ngành, lĩnh vực bộ, ngành phụ trách.

Nội dung 12: Hội đồng thống kê quốc gia

Hội đồng thống kê quốc gia là tổ chức hợp pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập để thực hiện chức năng điều phối và tư vấn về thống kê. Chức năng điều phối và tư vấn của Hội đồng thống kê quốc gia được thể hiện ở những nội dung sau:

- Nghiên cứu, đề xuất phương hướng, giải pháp để giải quyết những vấn đề liên ngành liên quan tới công tác thống kê; tập hợp được những ý kiến của những chuyên gia thống kê uy tín để nâng cao chất lượng thông tin thống kê và bảo đảm tiến tới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dùng tin.

- Tư vấn về chính sách, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng số liệu thống kê; phối hợp các hoạt động thống kê; xác định ưu tiên hàng năm và dài hạn về chương trình thống kê quốc gia.

- Điều hoà, phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương trong việc giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực thống kê.

- Đôn đốc các bộ, ngành, các địa phương trong việc thực hiện những vấn đề liên ngành thuộc lĩnh vực thống kê.

Ngoài ra, Hội đồng thống kê quốc gia được xem như là công cụ bảo vệ cho hệ thống thống kê khỏi các công kích mà cơ quan thống kê không thể phản ứng lại do cơ quan này là cơ quan nhà nước.

Nội dung 13: Không khả thi khi áp dụng mô hình Hội đồng thống kê vào thực tiễn Việt Nam

Việc áp dụng mô hình Hội đồng thống kê vào thực tiễn Việt Nam là không khả thi, vì:

1. Một trong những nguyên tắc của hoạt động thống kê là “Trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời …”, trong khi đó Hội đồng thống kê quốc gia hoạt động nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số, do vậy chỉ nên áp dụng mô hình này với chức năng là cơ quan tư vấn, điều phối thống kê. Với vai trò là cơ quan tư vấn, điều phối thì quyết định của Hội đồng thống kê quốc gia chỉ mang tính chất khuyến nghị, tư vấn, không có giá trị bắt buộc thực hiện.

2. Hội đồng thống kê quốc gia không thực hiện chức năng quản lý nhà nước, không có cơ chế tài chính bảo đảm cho hoạt động… do đó không bảo đảm tính khả thi. Thực tế trong lĩnh vực thống kê đã thành lập các hội đồng dưới hình thức Ban Chỉ đạo hoặc Ban Soạn thảo cấp Bộ, cấp Tổng cục. Tuy nhiên, các Ban chỉ đạo, Ban Soạn thảo này chỉ hoạt động với các thành viên của Tổng cục Thống kê là chính, các thành viên của các đơn vị khác hay thay đổi hoặc tham dự họp mang tính chất hình thức do thống kê là lĩnh vực nghiệp vụ chuyên sâu.

3. Thành viên Hội đồng thống kê quốc gia chủ yếu là các nhà khoa học, nhà phân tích kinh tế, giới kinh doanh, chính trị gia… Các thành viên này hoạt động không chuyên trách, hay thay đổi, dó đó hoạt động của Hội đồng không hiệu quả, không thiết thực.

4. Rất khó để xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ tương xứng của Hội đồng thống kê trong cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, việc xác định chức năng của Hội đồng cũng cần hết sức cân nhắc trong việc bảo đảm các yếu tố ảnh hưởng tới tính độc lập của tổ chức trong hoạt động chuyên môn thống kê và các chức năng cơ bản, quan trọng về quản lý nhà nước về thống kê. Những chỉ đạo, kết luận của Hội đồng sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, công bố số liệu thống kê, theo đó, việc bảo đảm tính độc lập, khách quan và không bị ảnh hưởng, chỉ đạo từ bên ngoài đối với quy trình sản xuất, công bố số liệu thống kê về lý thuyết sẽ rất khó bảo đảm.

5. Việc thành lập Hội đồng sẽ phát sinh thêm các đầu tư về cơ sở vật chất, hạ tầng, kỹ thuật và kinh phí, tổ chức bộ máy (các văn phòng thường trực, cán bộ công chức phục vụ hành chính...) để phục vụ hoạt động của Hội đồng.

Thực tế các nước thành lập Hội đồng Thống kê quốc gia hoạt động theo tính chất của Hội nghề nghiệp, không có chức năng kiểm tra, giám sát, chỉ thực hiện chức năng tham mưu.

Nội dung 14: Xã hội hóa công tác thống kê là gì?

Xã hội hóa công tác thống kê là thuật ngữ được sử dụng để chỉ cách làm, cách thực hiện hoạt động thống kê bằng con đường giác ngộ, tổ chức huy động tổng lực sức mạnh của toàn dân làm cho hoạt động thống kê không chỉ thực hiện ở một ngành, một đoàn thể hay một tổ chức xã hội nào đó, mà được tất cả các ngành, các giới, các lực lượng xã hội cũng như mỗi người dân đều nhận thấy đó là trách nhiệm của mình, nên đều tự nguyện và tích cực phối hợp thực hiện, đồng thời chính họ là người hưởng thụ mọi thành quả của hoạt động đó đem lại.

           Xã hội hóa công tác thống kê được xác định bởi các đặc điểm sau:

- Đó là việc huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan đến thống kê vào việc phát triển sự nghiệp thống kê. Sự huy động này không phải nhất thời mà được thực hiện thường xuyên theo một cơ chế vận hành xác định, xây dựng từ cấp Trung ương đến địa phương trên cơ sở một chiến lược phát triển cho cả nước cũng như cho mỗi địa phương, địa bàn dân cư nhất định.

- Đó là việc huy động các lực lượng của cộng đồng tham gia vào công tác thống kê. Các lực lượng xã hội có thể tham gia vào nhiều công đoạn của hoạt động thống kê với các hình thức phong phú, đa dạng.

         - Xã hội hóa công tác thống kê còn là việc mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho thống kê phát triển.

Nội dung 15: Không thể xã hội hóa công tác thống kê nhà nước

Không thể xã hội hóa công tác thống kê nhà nước, vì:

- Sản phẩm của hoạt động thống kê nhà nước là sản phẩm phi thị trường, vì hoạt động này do tiền từ ngân sách nhà nước và nó có đầy đủ đặc tính của dịch vụ công. Không thể biến sản phẩm của hoạt động thống kê nhà nước thành sản phẩm thị trường vì hoạt động thống kê tốn kém, giá trị của thông tin được thể hiện khi sử dụng để quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội, không thể thu hồi được vốn nếu đem mua bán các thông tin thống kê này. Hơn nữa sẽ làm cho người có tiền mới tiếp cận được với thông tin thống kê nhà nước. Như thế sẽ gây ra sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin thống kê nhà nước - trái với nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê.

- Sản phẩm của hoạt động thống kê nhà nước được các cơ quan nhà nước dùng để đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch, chính sách, quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; được dùng để giám sát, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước không sử dụng các thông tin thống kê của hoạt động thống kê ngoài nhà nước để đánh giá tình hình, hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch, chính sách, để giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nội dung trên.

- Việc cung cấp thông tin cho hoạt động thống kê nhà nước là bắt buộc (thông qua quyết định điều tra thống kê, chế độ báo cáo thống kê do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện), không được từ chối, cản trở, không được khai man, can thiệp làm sai lệch thông tin cung cấp cho cơ quan Thống kê nhà nước... Việc cung cấp thông tin cho hoạt động thống kê ngoài nhà nước là không bắt buộc, mà dựa trên sự thỏa thuận, thậm chí các tổ chức, cá nhân hoạt động thống kê ngoài nhà nước còn phải bỏ tiền để trả cho các đối tượng cung cấp thông tin thống kê.

- Luật Thống kê khung của quốc tế, Luật Thống kê của các nước chỉ điều chỉnh hoạt động thống kê nhà nước, không đề cập đến xã hội hóa hoạt động thống kê; không đề cập đến việc kết hợp thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân ngoài hệ thống tổ chức thống kê nhà nước với thông tin thống kê nhà nước.

- Không thể có tổ chức, cá nhân nào ngoài hệ thống thống kê nhà nước có đủ nguồn lực (con người, kinh phí...) để có thể thu thập, tổng hợp, tính toán các chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê, từ các chỉ tiêu mô tả hiện vật như sản lượng sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ..., chưa nói đến các chỉ tiêu tổng hợp như GDP, tích lũy, tiêu dùng cuối cùng, thu nhập quốc gia (GNI)... Các tổ chức, cá nhân ngoài Hệ thống thống kê nhà nước chỉ có thể điều tra thu thập về một chỉ tiêu cụ thể, trong một phạm vi nào đó không thể đại diện cho toàn bộ nền kinh tế.

Nội dung 16: Thống kê nhà nước - Khẳng định và nâng cao vai trò của hoạt động thống kê nhà nước

Hoạt động thống kê nhà nước là hoạt động thống kê trong chương trình thống kê được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt do Hệ thống thống kê nhà nước thực hiện hoặc do tổ chức khác thực hiện theo sự phân công hoặc ủy thác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luật Thống kê (sửa đổi) khẳng định:

- Mục đích của hoạt động thống kê nhà nước.

- Hệ thống thông tin thống kê nhà nước được xây dựng để đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các cấp.

- Hình thức thu thập thông tin thống kê nhà nước thông qua khai thác cơ sở dữ liệu từ nguồn dữ liệu hành chính.

Nội dung 17: Sử dụng dữ liệu hành chính cho hoạt động thống kê nhà nước

 Dữ liệu hành chính, đặc biệt là dữ liệu đăng ký hành chính, là nguồn dữ liệu để hình thành các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu bộ, ngành, cơ sở dữ liệu địa phương; là nguồn thông tin quan trọng cho hoạt động thống kê nhà nước.

Thực tiễn thống kê thế giới cho thấy nguồn thông tin dữ liệu hành chính và dữ liệu đăng ký hành chính có vai trò rất quan trọng đối với công tác thống kê. Đây là nguồn thông tin quan trọng hình thành hệ thống thông tin thống kê quốc gia. Hệ thống thống kê nhà nước có thể khai thác cơ sở dữ liệu này phục vụ cho hoạt động thống kê nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí, hình thành các dàn mẫu chuẩn phục vụ cho điều tra thống kê.

Cơ quan nhà nước trong phạm vi, quyền hạn có trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu hành chính phục vụ yêu cầu quản lý ngành, lĩnh vực và hoạt động thống kê nhà nước. Cơ sở dữ liệu hành chính được sử dụng trong hoạt động thống kê nhà nước gồm: Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; Cơ sở dữ liệu đăng ký doanh nghiệp quốc gia; Cơ sở dữ liệu đăng ký mã số thuế; Cơ sở dữ liệu quản lý thuế; Cơ sở dữ liệu tờ khai hải quan; Cơ sở dữ liệu hành chính khác theo quy định của pháp luật.

Cơ quan nhà nước quản lý cơ sở dữ liệu từ nguồn dữ liệu hành chính có trách nhiệm cung cấp dữ liệu theo yêu cầu của cơ quan thuộc Hệ thống tổ chức thống kê nhà nước về danh mục các trường dữ liệu có liên quan và dữ liệu; định dạng của dữ liệu, định nghĩa và các thuộc tính có liên quan của trường dữ liệu; phương thức, tần suất và thời gian cung cấp dữ liệu.

Cơ quan thuộc Hệ thống tổ chức thống kê nhà nước có quyền khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu từ nguồn dữ liệu hành chính do cơ quan nhà nước quản lý cho mục đích của hoạt động thống kê; có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích thống kê; bảo đảm bảo mật thông tin được chia sẻ theo đúng quy định của pháp luật. 

Số lần đọc: 1895
Cục Thống kê Kiên Giang
Tin liên quan