Tin nóng
25.10.2021

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a. Nông nghiệp

Vụ Hè thu (kể cả Xuân hè): kết thúc gieo trồng vụ Hè thu, toàn tỉnh gieo trồng được 281.802 ha, vượt 0,64% kế hoạch (vượt 1.802 ha) và giảm 0,52% (giảm 1.482 ha) so với diện tích lúa Hè thu năm trước, diện tích giảm chủ yếu ở 3 huyện Hòn Đất 500 ha, An Biên 575 ha, U Minh thượng 273 ha. Đến nay đã thu hoạch được 281.790 ha, ước tính năng suất trên trà lúa đã thu hoạch đạt 5,61 tấn/ha.

Vụ Thu đông (vụ 3): tính đến nay, toàn tỉnh đã gieo trồng được 91.096 ha, vượt 24,79% kế hoạch[1], tăng 1,07% so với diện tích lúa thu đông năm trước (tăng 964 ha). Đến nay đã thu hoạch 57.423 ha, ước tính năng suất trên trà lúa đã thu hoạch đạt 5,53 tấn/ha.

Cây rau màu: một số loại cây màu cũng được nhân dân quan tâm sản xuất như: dưa hấu 1.746 ha, tăng 9,06% so với cùng kỳ năm trước; khoai lang 1.613 ha, tăng 11,70% so cùng kỳ; khoai mì 374, tăng 3,60% so cùng kỳ; bắp 311 ha, tăng 10,68% so cùng kỳ; rau, đậu các loại 9.787 ha, tăng 4,63% so cùng kỳ năm trước.

Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn ổn định; dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát nhưng dịch tả heo châu Phi đã xuất hiện trở lại, một số ổ dịch trên địa bàn của 4 huyện (Châu Thành, Tân Hiệp, Hòn Đất, An Minh), đã tiêu hủy trên 300 con heo và bệnh nổi cục trên da trâu, bò cũng đã xuất hiện ở một số huyện.

Ngành chăn nuôi đang đứng trước rất nhiều khó khăn, không những xuất hiện dịch bệnh mà việc tiêu thụ cũng rất khó khăn do sức mua của thị trường giảm mạnh (dịch Covid -19 ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của người dân); mặt khác thức ăn chăn nuôi liên tục tăng, dẫn đến hiệu quả chăn nuôi rất thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tái đàn, mở rộng quy mô chăn nuôi. Để khôi phục và phát triển chăn nuôi, ngành nông nghiệp đang tập trung chỉ đạo, triển khai nhanh mô hình chăn nuôi an toàn sinh học trên các đối tượng vật nuôi, nhất là đối với chăn nuôi heo.

b. Lâm nghiệp

Các ngành chức năng thường xuyên phối hợp với các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao kiến thức về phòng chống cháy rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, duy trì thường xuyên công tác chăm sóc, bảo vệ rừng, chống chặt phá rừng nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại. Thực hiện Kế hoạch khoanh nuôi, chăm sóc rừng trong năm, đến nay đã có 6.520 ha rừng được chăm sóc, giảm 16,62% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 400 ha, giảm 20% so cùng kỳ và diện tích rừng được khoán bảo vệ là 9.783 ha, tăng 4,30% so cùng kỳ.

Trong tháng xảy ra 5 vụ phá rừng, diện tích rừng bị thiệt hại là 0,50 ha. Tính chung 10 tháng đã xảy ra 47 vụ phá rừng, diện tích bị thiệt hại 12,46 ha và 8 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị thiệt hại 12,09 ha.

c. Thủy sản

Giá trị sản xuất thủy sản (giá so sánh 2010): tháng Mười ước tính đạt 2.636,81 tỷ đồng, giảm 0,20% so với tháng trước, tăng 2,86% so cùng tháng[2] năm trước. Tính chung 10 tháng, ước đạt 27.352,87 tỷ đồng, đạt 82,60% kế hoạch năm, tăng 1,65% so cùng kỳ[3] năm trước.

Sản lượng thủy sản (cả khai thác và nuôi trồng): tháng Mười ước đạt 75.568 tấn, tăng 9,47% so với tháng trước và tăng 2,52% so cùng kỳ. Tính chung 10 tháng ước tính 707.393 tấn, đạt 88,53% kế hoạch năm, tăng 0,01% so cùng kỳ. Chia ra:

Sản lượng khai thác: tháng Mười ước đạt 46.919 tấn, tăng 1,61% so tháng trước, tăng 0,01% so cùng kỳ. Tính chung 10 tháng ước tính 476.578 tấn, đạt 93,45% kế hoạch năm, giảm 0,75% so cùng kỳ[4].

Sản lượng nuôi trồng: tháng Mười ước tính đạt 28.649 tấn, tăng 25,36% so với tháng trước, tăng 6,92% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng tăng so với tháng trước chủ yếu là do tăng sản lượng cá các loại và thủy sản khác. Tính chung 10 tháng, ước tính sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch 230.815 tấn, đạt 79,87% kế hoạch năm, tăng 1,62% (tăng 3.673 tấn) so cùng kỳ năm trước[5].

2. Công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP): tháng Mười chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 21,85% so tháng trước, giảm 12,68% so cùng tháng năm trước. So với tháng trước ngành chế biến, chế tạo tăng 23,76%[6]; ngành khai khoáng tăng 29,84%. Tính chung 10 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành giảm 4,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 1%; ngành chế biến, chế tạo giảm 5,34%[7].

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): tháng Mười ước tính đạt 4.179,28 tỷ đồng, tăng 22,83% so với tháng trước, giảm 3,90% so với cùng tháng năm trước[8]. Tính chung 10 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính 37.388,99 tỷ đồng, đạt 68,71% kế hoạch năm, tăng 0,18% so với cùng kỳ.[9]

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 10 tháng tăng so cùng kỳ như: giày da đạt 67,08% kế hoạch năm, tăng 39,33%; gỗ MDF đạt 87,16% kế hoạch năm, tăng 6,06%; điện thương phẩm đạt 74,36% kế hoạch năm, tăng 7,68%; sản xuất nước mắm đạt 80,81% kế hoạch năm, tăng 4,74%; nước máy đạt 75,32% kế hoạch năm, tăng 0,78%; tôm đông lạnh đạt 71,98% kế hoạch năm, tăng 6,03%… Nhưng cũng có một số sản phẩm giảm so cùng kỳ như: bia các loại đạt 59,40% kế hoạch năm, giảm 17,82%; bột cá đạt 52,71%, giảm 19,92%; mực đông lạnh đạt 63,53%, giảm 18,79%; cá đông đạt 67,82%, giảm 10,50%; xi măng đạt 75,26%, giảm 10,84%; nước đá giảm 9,14%; bao bì PP giảm 29,18%... Nguyên nhân là do ảnh hưởng chung tình hình dịch bệnh Covid – 19 diễn biến phức tạp những tháng gần đây đã làm cho một số doanh nghiệp phải ngưng hoạt động, giảm năng lực sản xuất do thiếu lao động, không đảm bảo điều kiện “3 tại chỗ” để phòng chống dịch, sản phẩm sản xuất tiêu thụ chậm.

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tính tháng 10 bằng 85,52% cùng kỳ năm trước; trong đó, sản xuất chế biến thực phẩm bằng 86,64%; sản xuất đồ uống bằng 85,14%; sản xuất trang phục bằng 81,25%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ bằng 69,60%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng 67,77%...

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tính tháng 10 bằng 66,79% cùng kỳ năm trước; trong đó, sản xuất đồ uống bằng 39,76%; sản xuất xi măng, vôi bằng 84,44%; sản xuất chế biến thực phẩm bằng 113,91%; sản xuất trang phục bằng 467,35%...

Chỉ số sử dụng lao động của ngành công nghiệp tháng 10 tăng 6,04% so với tháng trước, giảm 23,25% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng giảm 5,75% so với cùng kỳ năm trước.

3. Vốn đầu tư thực hiện (Vốn ngân sách nhà nước)

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng Mười (Số giải ngân đến 15/10/2021) ước tính 511,86 tỷ đồng, bằng 317,63% so với tháng trước, nhưng vẫn giảm 41,77% so cùng tháng năm trước. Trong đó: vốn cân đối ngân sách địa phương 259,15 tỷ đồng, tăng 82,06% so tháng trước, giảm 48,36% so cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước ước tính 1.800,33 tỷ đồng, mới đạt 38,60% kế hoạch năm và chỉ bằng 56,49% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn cân đối ngân sách địa phương 1.316,04 tỷ đồng, đạt 33,21% kế hoạch năm, bằng 79,59% cùng kỳ năm trước; vốn xổ số kiến thiết 623,60 tỷ đồng, đạt 38,73% kế hoạch, giảm 6,78% so với cùng kỳ.

4. Thu, chi ngân sách nhà nước

Tổng thu ngân sách nhà nước tháng Mười ước thu 632,50 tỷ đồng, tăng 161,85% so với tháng trước, bằng 79,90% so cùng tháng năm trước. Trong đó thu nội địa 620 tỷ đồng, tăng 161,88% so với tháng trước, bằng 79,40% so cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, tổng thu ngân sách ước đạt 7.945,72 tỷ đồng, đạt 68,73% dự toán năm, giảm 21,48% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa 7.883,94 tỷ đồng, chiếm 99,22% tổng thu, đạt 69,10% dự toán năm, giảm 20,46% so cùng kỳ. So với cùng kỳ năm trước, chỉ có 4 khoản thu tăng cao[10], song vẫn còn một số khoản thu đạt thấp như thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước mới bằng 39,21% cùng kỳ, đạt 41,08% dự toán; thu tiền sử dụng đất bằng 37,49% cùng kỳ, đạt 39,87% dự toán; thu thuế bảo vệ môi trường bằng 63,23% cùng kỳ, đạt 45,69% dự toán…

Tổng chi ngân sách địa phương tháng Mười ước tính 1.355,59 tỷ đồng, tăng 14,87% so với tháng trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển 342,70 tỷ đồng, giảm 20,67% so tháng trước; chi thường xuyên 1.012,89 tỷ đồng, tăng 35,39% so tháng trước. Tính chung 10 tháng, tổng chi ngân sách địa phương ước tính 9.165,56 tỷ đồng, bằng 59,28% dự toán năm, giảm 10,55% so cùng kỳ năm trước[11].

5. Ngân hàng

Hoạt động huy động vốn và tín dụng tiếp tục tăng trưởng, kịp thời đáp ứng nhu cầu phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Ước tính đến 31/10/2021, một số chỉ tiêu đạt như sau:

Tổng nguồn vốn hoạt động ước đạt 113.700 tỷ đồng, tăng 0,69% so tháng trước, tăng 8,18% so đầu năm; trong đó, vốn huy động tại địa phương ước đạt 58.050 tỷ đồng (chiếm 50,47% tổng nguồn vốn hoạt động), tăng 0,02% so tháng trước, tăng 5,33% so đầu năm.

Doanh số cho vay trong tháng ước đạt 12.000 tỷ đồng, trong đó 87,9% doanh số cho vay là phục vụ sản xuất kinh doanh; dư nợ cho vay ước đạt 93.800 tỷ đồng, tăng 0,75% so tháng trước, tăng 6,63% so đầu năm.

Nợ xấu nội bảng ước tính 1.250 tỷ đồng, chiếm 1,33% tổng dư nợ.

Nợ tổn thất (nợ đã xử lý bằng dự phòng rủi ro và đang theo dõi ngoại bảng) ước tính 1.200 tỷ đồng.

Hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng trên địa bàn khá ổn định. Tỷ giá vàng và ngoại tệ diễn biến theo xu hướng chung của cả nước và thế giới.

6. Thương mại - dịch vụ và giá cả

Tình hình dịch Covid-19 đã giảm nhiều trong tháng 10 trên địa bàn tỉnh nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp. Để thực hiện mục tiêu vừa chống dịch vừa phát triển sản xuất kinh doanh. Từ ngày 29/9/2021 thực hiện áp dụng các biện pháp cấp bách phòng chống dịch Covid – 19 theo Chỉ thị số 19 của thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn dần trở lại hoạt động trong điều kiện bình thường mới. Doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác tăng lên, riêng dịch vụ du lịch lữ hành vẫn bị ảnh hưởng nặng nề nhất, 4 tháng không phát sinh doanh thu.

a. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười ước đạt 7.093,31 tỷ đồng, tăng 32,88% so tháng trước, nhưng vẫn giảm 22,34% so cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, ước đạt 84.999,32 tỷ đồng, đạt 68,48% kế hoạch năm, giảm 5,76% so với cùng kỳ. Chia theo ngành hoạt động:

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng Mười ước đạt 5.343,69 tỷ đồng, tăng 13,18% so với tháng trước, giảm 22,96% so cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, ước đạt 66.131,85 tỷ đồng, đạt 71,40% kế hoạch năm, giảm 1,88% so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng Mười ước tính 798 tỷ đồng, tăng 380,36% so tháng trước, giảm 22,20% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng, ước đạt 9.204,53 tỷ đồng, đạt 54,79% kế hoạch năm, giảm 21,18% so cùng kỳ.

Doanh thu du lịch lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch tháng Mười do ảnh hưởng của Đại dịch Covid-19 nên không phát sinh doanh thu. Tính chung 10 tháng ước đạt 154,05 tỷ đồng, đạt 61,62% kế hoạch năm, giảm 16,29% so cùng kỳ.

Doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng Mười ước đạt 951,62 tỷ đồng, tăng 111,16% so với tháng trước, giảm 17,68% so cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng ước tính 9.508,90 tỷ đồng, đạt 65,81% kế hoạch năm, giảm 13,08% so cùng kỳ năm trước.

b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười ước đạt 62 triệu USD, tăng 48,65% so với tháng trước và giảm 6,68% so cùng tháng năm trước[12]. Tính chung 10 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính 582,82 triệu USD, đạt 77,71% kế hoạch năm, tăng 0,07% so với cùng kỳ. Trong đó, hàng nông sản 203,15 triệu USD, giảm 0,98% so cùng kỳ; hàng thủy sản 201,55 triệu USD, tăng 9,26% so cùng kỳ. Một số mặt hàng xuất chủ yếu như: gạo 383.174 tấn, đạt 79,83% kế hoạch năm, giảm 6,37% so cùng kỳ; tôm đông 3.765 tấn, đạt 83,67% kế hoạch, so với cùng kỳ tăng 13,27%; mực, bạch tuộc đông 11.551 tấn, đạt 92,41% kế hoạch, so với cùng kỳ tăng 19,37% ...

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười ước đạt 9 triệu USD, tăng 19,36% so với tháng trước và tăng 38,25% so tháng cùng kỳ. Tính chung 10 tháng ước tính đạt 110,88 triệu USD, đạt 110,88% kế hoạch năm, tăng 0,84% so với cùng kỳ. Các mặt hàng nhập khẩu, chủ yếu vẫn là nguyên liệu dùng cho sản xuất.

c. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Mười tăng 0,33% so với tháng trước. Trong đó: khu vực thành thị tăng 0,62%, khu vực nông thôn giảm 0,16%. CPI tháng Mười tăng nhẹ so với tháng trước, chỉ có 5/11 nhóm tăng, trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất với mức tăng 1,87%; kế đến là nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,93%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,70%; nhóm giáo dục tăng 0,64%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%. Có 3 nhóm giảm đó là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,16% (trong đó thực phẩm giảm 0,77%); nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,06% và nhóm may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,03%. Còn lại các nhóm khác bình ổn.

So với tháng 12 năm trước (sau 10 tháng) chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,15%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, duy nhất chỉ có nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,43% và cũng chỉ có nhóm Bưu chính viễn thông là bình ổn (bằng 100%), còn lại tất cả các nhóm khác đều tăng giá. Trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất 13,59%; kế đến là nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 5,77%; nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 4,60%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,38% (lương thực tăng 2,66%, thực phẩm tăng 1,39%, ăn uống ngoài gia đình tăng 5,36%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,14%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,08%; giáo dục tăng 0,75%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,55%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,52%.

Chỉ số giá vàng: tháng Mười so với tháng trước giảm 66.000 đồng/chỉ (giảm 1,28%) và giảm 5,09% so với tháng 12 năm trước, giảm 4,84% so với cùng tháng năm trước. Giá vàng nhẫn bình quân tháng 10 là 5.070.000 đồng/chỉ.

Chỉ số giá đô la Mỹ: tháng Mười giảm 0,10% so với tháng trước, giảm 1,79% so với cùng tháng năm trước và giảm 1,72% so với tháng 12 năm trước. Giá USD bình quân tháng 10 tại liên ngân hàng là 2.286.100 đồng/100 USD, giảm 2.200 đồng/100 USD so với tháng trước.

d. Vận tải

Vận tải hành khách: tháng Mười hoạt động vận tải nội tỉnh đã hoạt động trở lại nên vận chuyển hành khách đang từng bước được hồi phục. Ước tính vận chuyển hành khách trong tháng 10 đạt 1,52 triệu lượt khách, tăng 17 lần so tháng trước, nhưng chỉ bằng 20,67% so với cùng tháng năm trước; luân chuyển 100,64 triệu HK.km, bằng 15 lần so tháng trước, chỉ bằng 20,84% so cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, vận chuyển hành khách ước đạt gần 52 triệu lượt khách, đạt 52,64% kế hoạch năm, giảm 28,48% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 3.446,05 triệu HK.km, đạt 53,10% kế hoạch năm, giảm 27,55% so cùng kỳ. Trong đó, vận chuyển hành khách đường bộ giảm 28,76%, vận chuyển hành khách đường biển giảm 17,44% so cùng kỳ.

Vận tải hàng hóa: tháng Mười, hàng hóa vận chuyển ước tính 1,19 triệu tấn, tăng 37,53% so tháng trước, tăng 0,08% so cùng tháng năm trước; luân chuyển 170,28 triệu tấn.km, tăng 36,51% so tháng trước, tăng 0,40% so cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, vận chuyển hàng hóa ước tính 11,21 triệu tấn, đạt 80,06% kế hoạch năm, giảm 3,84% so cùng kỳ. Trong đó, vận chuyển hàng hóa đường bộ giảm 3,35%, vận tải hàng hóa đường biển giảm 1,26%; luân chuyển 1.605,90 triệu tấn.km, đạt 81,08% kế hoạch năm, giảm 3,44% so với cùng kỳ.

e. Du lịch

Tháng 10 ảnh hưởng của dịch Covid-19 còn khá nặng nề, hầu hết các cơ sở lưu trú, các điểm du lịch vẫn chưa đón khách, chỉ có một số khách bị kẹt lại ở thành phố Phú Quốc do giãn cách xã hội. Du lịch trên địa bàn tỉnh sụt giảm mạnh do ảnh hưởng chung của đại dịch, từ đó để phấn đấu phát triển du lịch cần phải tìm các giải pháp nhằm kích cầu du lịch trở lại, từng bước phục hồi và lấy lại đà phát triển du lịch của tỉnh trong tình hình dịch bệnh được kiểm soát. Kế hoạch phục hồi và phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh đã được tỉnh ban hành, theo đó tháng 11 tới tỉnh mới bắt đầu đón khách du lịch.

Ước tính khách du lịch trong tháng 10 chỉ có 2,10 ngàn lượt khách, bằng 63,55% lượng khách của tháng trước và chỉ bằng 0,67% lượng khách của tháng 10/2020. Tính chung 10 tháng, tổng lượt khách du lịch trên địa bàn tỉnh là 2.326,35 ngàn lượt khách, đạt 33,23% kế hoạch năm, chỉ bằng 50,72% so cùng kỳ năm trước. Trong đó lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch là 1.143,03 ngàn lượt khách, đạt 33,62% kế hoạch năm, giảm 42,60% so cùng kỳ năm trước. Trong đó khách quốc tế 28,58 ngàn lượt khách, mới đạt 7,14% kế hoạch năm và chỉ bằng 16,99% cùng kỳ năm trước.

8. Một số tình hình xã hội

a. Lao động, giải quyết việc làm, đào tạo nghề

Trong tháng Mười công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm bị ảnh hưởng và gián đoạn do các địa phương trong tỉnh vẫn thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch Covid – 19. Tính chung 10 tháng giải quyết việc làm được 19.464 lượt người, đạt 55,61% kế hoạch năm, giảm 35,02% so cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu lao động 102 người, bằng 91,89%. Đào tạo nghề 16.866 lượt người, đạt 74,22% so cùng kỳ. Tổng số người lao động nước ngoài được cấp phép trong tháng là 18 người, tính từ đầu năm đến nay là 88 người. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển sinh bằng nhiều hình thức trực tuyến phù hợp với tình hình phòng, chống dịch Covid-19.

b. Giáo dục

Các cơ sở giáo dục đã chú trọng tổ chức các hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, phương pháp học tập sáng tạo cho học sinh. Do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ngành giáo dục đã chủ động và nghiêm túc thực hiện các chủ trương của Tỉnh ủy và UBND trong phòng chống dịch; tiếp tục chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục năm học 2021 – 2022 ứng phó với dịch Covid – 19. Tập huấn dạy học trực tuyến, dạy học trên truyền hình cho cán bộ quản lí, giáo viên cấp tiểu học. Tập huấn tích hợp nội dung giáo dục địa phương vào hoạt động trải nghiệm và các môn học.

Chuẩn bị tốt các nội dung và điều kiện để thực hiện tốt kế hoạch năm học mới 2021-2022 được thuận lợi, an toàn. Tập trung thực hiện bước đầu đạt hiệu quả việc dạy học trực tuyến và dạy học trên truyền hình cho học sinh phổ thông; tập trung vận động quyên góp, ủng hộ thiết bị học tập trực tuyến cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn theo sự chỉ đạo chung của Chương trình “Sóng và máy tính cho em”, kết quả đạt rất khả quan. Hiện tại, ngành đang tích cực phối hợp với Sở Y tế để chuẩn bị phương án cho học sinh đến trường khi dịch bệnh Covid-19 ổn định và được kiểm soát an toàn.

c. Tình hình y tế

Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, trong tháng người dân từ các tỉnh trở về địa phương rất đông. Tiếp tục chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện sàng lọc, chủ động tăng cường các biện pháp ứng phó, thực hiện tốt công tác phân luồng, sàng lọc người bệnh, các đối tượng có nguy cơ đến/trở về từ các khu vực có dịch, ổ dịch. Chỉ đạo hướng dẫn phòng, chống dịch Covid-19 tại nơi làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu công nghiệp...Tiếp tục điều tra, truy vết, cách ly những trường hợp nhập cảnh trái phép và trở về từ vùng dịch; kiểm tra Bộ tiêu chí phòng chống dịch Covid-19 và các dịch bệnh viêm đường hô hấp tại các bệnh viện, trung tâm y tế huyện, thành phố, phòng khám và trạm y tế.

Tình hình dịch bệnh:

- Tình hình dịch Covid-19: từ khi xuất hiện dịch trên địa bàn đến ngày 20/10/2021, toàn tỉnh ghi nhận 7.471 trường hợp mắc Covid-19 (trong đó có 106 ca nhập cảnh và 7.365 ca nhiễm trong tỉnh), đã điều trị khỏi 6.393 trường hợp, 83 trường hợp tử vong, 995 trường hợp đang điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong tỉnh.

Hiện tại đang cách ly tập trung 1.743 trường hợp; cách ly tại nhà, nơi lưu trú 19.030 trường hợp. Tổng số trường hợp được lấy mẫu xét nghiệm Covid-19 là 230.329 trường hợp, trong đó số trường hợp có kết quả dương tính 7.471 trường hợp. Tổng số trường hợp nhập cảnh qua cửa khẩu quốc tế Hà Tiên tính từ ngày 20/02/2021 đến nay 2.284 trường hợp.

- Bệnh sốt xuất huyết trong tháng ghi nhận 41 cas, trong đó có 7 cas sốt xuất huyết nặng (huyện An Biên 5 cas, An Minh 02 cas), giảm 33 cas so với tháng trước; địa bàn có số cas mắc cao là huyện An Minh 16 cas, An Biên 12 cas, Phú Quốc 4 cas. Tính chung từ đầu năm đến nay số cas mắc là 687 cas, không có trường hợp tử vong.

- Bệnh tay chân miệng có 02 cas mắc, bằng so với tháng trước. Tính chung từ đầu năm đến nay số cas mắc là 987 cas.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: thực hiện thanh, kiểm tra 126 cơ sở, trong đó có 107 cơ sở đảm bảo VSATTP theo quy định (84,92%) và 19 cơ sở chưa đảm bảo VSATTP (15,08%), đã xử lý nhắc nhở và hướng dẫn cơ sở thực hiện việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong tháng không ghi nhận trường hợp ngộ độc thực phẩm nào.

d. Hoạt động Văn hóa, Thể dục thể thao

- Hoạt động Văn hóa:

Trong tháng tập trung tuyên truyền các hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị; nhất là tuyên truyền kỷ niệm 30 năm ngày Quốc tế Người cao tuổi (01/10/1991 - 01/10/2021), kỷ niệm 91 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2021) và kỷ niệm 11 năm ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10/2010 - 20/10/2021)…

 Bên cạnh đó, ngành vẫn thực hiện một số nhiệm vụ chuyên môn, nổi bật như: Thư viện tỉnh thu âm, quay hình chương trình Liên hoan Cán bộ thư viện tuyên truyền giới thiệu sách kỷ niệm 110 năm Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911 - 05/6/2021) và các ngày lễ lớn trong năm 2021; bBan quản lý di tích tỉnh kiểm kê di tích tại huyện Châu Thành.

Công tác gia đình và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”: hướng dẫn tổ chức các hoạt động truyền thông hưởng ứng ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ (25/11), tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới.

- Hoạt động Thể dục thể thao:

Thể dục thể thao quần chúng: tạm hoãn tổ chức các giải thể dục, thể thao trên địa bàn tỉnh, thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch Covid-19. Xây dựng kế hoạch tập luyện thể dục thể thao nâng cao sức khỏe phòng chống dịch Covid – 19.

Thể thao thành tích cao: đội cờ vua tham gia thi đấu giải cờ vua online trẻ Đông Á tại Thái Lan; kết quả: đạt 01 huy chương vàng đồng đội U8 nữ và 01 huy chương đồng cá nhân.

e. Tình hình an toàn giao thông

Tính từ ngày 15/9/2021 đến 14/10/2021, toàn tỉnh xảy ra 8 vụ tai nạn giao thông, làm chết 10 người, bị thương 4 người (trong đó 4 vụ tai nạn giao thông đường thủy làm chết 5 người). So với tháng trước số vụ tai nạn giao thông tăng 3 vụ, tăng 5 người chết và tăng 3 người bị thương. Tính chung 10 tháng (từ 15/12/2020 đến 14/10/2021) toàn tỉnh xảy ra 92 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 80 vụ, đường thủy 12 vụ), làm 66 người chết (đường bộ 55 người, đường thủy 11 người), 49 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, giảm 3 vụ (giảm 3,16%), tăng 7 người chết (tăng 11,86%) và giảm 9 người bị thương (giảm 15,52%).

f. Tình hình cháy, nổ và thiên tai

Tình hình cháy nổ: từ ngày 15/9/2021 đến 14/10/2021 toàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ.

Tính chung từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh Kiên Giang xảy ra 12 vụ cháy, 01 vụ nổ, làm bị thương 01 người và chết 01 người. Thiệt hại ước khoảng trên 5,3 tỷ đồng.

Tình hình thiên tai: từ ngày 15/9/2021 đến 14/10/2021 trên địa bàn tỉnh có xảy ra mưa giông, gió lớn làm sập hoàn toàn 10 căn nhà (Hòn Đất 03 căn; Châu Thành 01 căn; Gò Quao 01 căn; U Minh Thượng 02 căn; Kiên Hải 03 căn), tốc mái 20 căn (Hòn Đất 7 căn; An Minh 02 căn; Tân Hiệp 01 căn; An Biên 03 căn; Gò Quao 03 căn; U Minh Thượng 03 căn; Giang Thành 01 căn); chìm 5 tàu đánh bắt thủy sản (Kiên Lương 01 tàu và Kiên Hải 4 tàu). Ước tính thiệt hại khoảng 1,5 tỷ đồng. Chính quyền địa phương đã huy động lực lượng nhanh chóng giúp dân thu gom đồ đạc, hỗ trợ tiền để khắc phục, thống kê thiệt hại tài sản, đồng thời ưu tiên lo chỗ ở cho dân, kiên quyết không để người dân thiếu đói hoặc không có nơi ở. Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng thiên tai do giông lốc, gió giật mạnh đã làm sập 132 căn nhà, tốc mái 222 căn, bị thương 18 người, chết 02 người, chìm 5 tàu đánh bắt thủy sản. Thiệt hại về vật chất ước tính khoảng trên 11,70 tỷ đồng./.

Tải về: - Số liệu Kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2021 của tỉnh Kiên Giang;

             - Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 năm 2021 của tỉnh Kiên Giang


[1] Diện tích gieo trồng ở các huyện như Tân Hiệp 32.273 ha, Giồng Riềng 28.056 ha, Giang Thành 15.514 ha, Châu Thành 7.842 ha, Hòn Đất 5.890 ha, Rạch Giá 790 ha, Gò Quao 731 ha.

[2] Chia ra: Giá trị khai thác tăng 1,71% so tháng trước, tăng 1,15% so cùng kỳ; giá trị nuôi trồng giảm 1,89% so tháng trước, tăng 4,48% so cùng kỳ.

[3] Chia ra: Giá trị khai thác đạt 95,79% kế hoạch năm, giảm 0,18% so cùng kỳ; nuôi trồng đạt 73,75% kế hoạch, tăng 3,29%.

[4] Trong đó cá các loại giảm 0,94% (giảm 3.423 tấn); mực giảm 0,82% (giảm 490 tấn).

[5] Trong đó cá nuôi giảm 5,28% (giảm 3.634 tấn) so với cùng kỳ và đạt 71,50% kế hoạch năm; tôm các loại tăng 9,97% (tăng 8.306 tấn) so với cùng kỳ và đạt 93,44% kế hoạch năm.

[6] Trong đó: ngành chế biến thực phẩm tăng 20,34%; ngành sản xuất đồ uống tăng 14,09%...

[7] Trong đó: ngành sản xuất đồ uống giảm 7,12%, ngành chế biến thực phẩm giảm 5,18%...

[8] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 95,13%/ trong tổng số, tăng 23,76%.

[9] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 94,49%/ trong tổng số, giảm 0,03%.

[10] Thu từ doang nghiệp NN TW, đạt 77,70% dự toán năm, tăng 15,79% so cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân đạt 95,46%, tăng 2%; thu phí, lệ phí đạt 82,36% dự toán, tăng 12,06%, thu khác đạt 107,81%, tăng 22,56%.

[11] Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 38,84% dự toán năm, giảm 40,53% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 73,26% dự toán và tăng 4,30% so với cùng kỳ.

[12] So với tháng trước, giá trị hàng nông sản tăng 111,24%; hàng thủy hải sản tăng 5,02%; nguyên liệu giày da tăng 66,77%.

 

Số lần đọc: 855
Cục thống kê Kiên Giang
Tin liên quan