Tin nóng
31.03.2022

Quý I năm 2022, kinh tế đang trên đà hồi phục trên tất cả các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch; sức mua của thị trường tăng lên đáng kể, khách du lịch nội địa tăng cao, các ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng hơn so với cùng kỳ. Bám sát tình hình thực tiễn, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt để kịp thời ứng phó với diễn biến của dịch bệnh, thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả. Bức tranh kinh tế - xã hội của tỉnh quý I năm 2022 tuy chưa đạt mức tăng của cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng khá và đạt được một số kết quả tích cực trên các lĩnh vực. Tuy chưa đạt được sự kỳ vọng của đột phá trăng trưởng, nhưng đã thể hiện được sự đồng lòng và quyết tâm vượt khó của cả hệ thống chính trị, đã đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn; an sinh xã hội được đảm bảo; thị trường tiền tệ, tín dụng vẫn ổn định và đạt mức tăng trưởng tốt, đủ sức đáp ứng nguồn vốn cho sản xuất và tiêu dùng. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn chưa hết tác động tiêu cực cho nền kinh tế, bên cạnh đó tình hình kinh tế, chính trị, xung đột quân sự trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp đã đẩy giá xăng, dầu tăng cao, làm tăng chi phí đầu vào của hầu hết các ngành, lĩnh vực, theo đó một số mặt hàng khác cũng leo thang tăng giá, thế giới đang đứng trước nguy cơ lạm phát tăng cao, … Trước tình hình đó, kinh tế của tỉnh trong quý I vẫn ổn định và tăng trưởng.

Ước tính tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý I năm 2022 (giá so sánh 2010) đạt 18.499,69 tỷ đồng, bằng 27,63% kế hoạch năm, tăng 2,67% so với cùng kỳ năm trước [1] (cùng kỳ năm trước đạt mức tăng 4,14%). Trong đó:

 Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Tổng giá trị tăng thêm (VA) ước tính 9.136,33 tỷ đồng, tăng 0,80% so với năm trước, đóng góp cho tăng trưởng chung 0,40 điểm phần trăm, trong đó: Giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp 7.152,46 tỷ đồng, tăng 3,41% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp cho tăng trưởng chung 1,31 điểm phần trăm; ngành thủy sản ước đạt 1.945,03 tỷ đồng, giảm 7,75% so với cùng kỳ năm trước, làm giảm tăng trưởng chung 0,91 điểm phần trăm.

Khu vực công nghiệp và xây dựng: Tổng giá trị tăng thêm ước tính 3.392,66 tỷ đồng, tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp cho tăng trưởng chung 1,28 điểm phần trăm, trong đó công nghiệp đạt 2.012,85 tỷ đồng, tăng 11,07% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp cho tăng trưởng chung 1,11 điểm phần trăm; xây dựng đạt 5.038,66 tỷ đồng, tăng 2,53% so với cùng kỳ năm trước và đóng góp cho tăng trưởng chung 0,17 điểm phần trăm.

Khu vực dịch vụ: Tổng giá trị tăng thêm ước tính đạt trên 5.038,66 tỷ đồng, tăng 2,53% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp cho tăng trưởng chung 0,69 điểm phần trăm.

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 932,04 tỷ đồng, tăng 6,00% so với cùng kỳ năm trước và đóng góp cho tăng trưởng chung 0,29 điểm phần trăm.

Về cơ cấu kinh tế (cơ cấu GRDP): khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 49,19%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 17,45%; khu vực dịch vụ chiếm 28,32%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,04%.

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tháng Ba ước tính đạt hơn 1.204 tỷ đồng, tăng 31,46% so với tháng trước và tăng 11,43% so cùng kỳ. Tổng thu ngân sách quý I, ước tính 3.412,53 tỷ đồng, đạt 30,89% dự toán HĐND tỉnh giao, giảm 1,18% so cùng kỳ. Trong đó thu nội địa 3.386,81 tỷ đồng, đạt 30,79% dự toán, giảm 1,56% so cùng kỳ, chiếm 99,25% trong tổng thu ngân sách của tỉnh. Nếu loại trừ tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết và ghi thu ghi chi tiền thuê đất thì ước thu nội địa quý I chỉ được 2.715,7 tỷ đồng, đạt 33,54% so với dự toán, tăng 10,99% so với cùng kỳ. Một số khoản thu đạt cao so với dự toán và tăng so với cùng kỳ năm trước như: thu từ khu vực công thương nghiệp NQD đạt 43,60% dự toán, tăng 44,66%; thu khác đạt 27,89% dự toán, tăng 25,67%; thu thuế thu nhập cá nhân đạt 32,84% dự toán, tăng 11,07% ....Tuy nhiên, cũng còn một số khoản thu đạt thấp so với dự toán và năm trước như: thu từ sổ xố kiến thiết mới đạt 24,12% dự toán, giảm 47,44%; thu cho thuê mặt đất, mặt nước đạt 18,56% dự toán, giảm 33,64%; thu từ doanh nghiệp nhà nước TW đạt 26,50% dự toán, giảm 25,43%; thu thuế bảo vệ môi trường đạt 12,73% dự toán, bằng 30,62%...

Tổng chi ngân sách địa phương tháng Ba ước chi hơn 975 tỷ đồng, tăng 246,36% so tháng trước và tăng 62,67% so cùng kỳ. Tổng chi ngân sách quý I ước tính 2.453,13 tỷ đồng, đạt 15,97% dự toán năm, tăng 21,21% so cùng kỳ. Trong đó: chi thường xuyên 2.064,13 tỷ đồng, đạt 20,91% dự toán, tăng 19,51%; chi đầu tư phát triển 389 tỷ đồng, đạt 9,90% dự toán, tăng 31,17% so năm trước.

2.2. Hoạt động Ngân hàng

Trong điều kiện bình thường mới, hoạt động ngân hàng trên địa bàn tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, tạo điều kiện tiếp cận vốn để phục hồi sản xuất kinh doanh. Huy động vốn và tín dụng diễn biến phù hợp tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn. Ước đến cuối quý I/2022, một số chỉ tiêu đạt cụ thể như sau:

Tổng nguồn vốn hoạt động ước đạt 121.450 tỷ đồng, tăng 4,67% so đầu năm (cùng kỳ 2021 tăng 3,01%), tăng 12,17% so cùng kỳ; trong đó, vốn huy động tại địa phương ước đạt 63.500 tỷ đồng (chiếm 52,28% tổng nguồn vốn hoạt động), tăng 3,42% so đầu năm (cùng kỳ 2021 tăng 4,02%), tăng 10,76% so cùng kỳ.

Doanh số cho vay trong quý I đạt 42.400 tỷ đồng (trong đó 80,79% doanh số cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh); dư nợ cho vay ước đạt 99.900 tỷ đồng, tăng 2,56% so đầu năm (cùng kỳ 2021 tăng 1,53%), tăng 11,86% so cùng kỳ.

Nợ xấu nội bảng 1.300 tỷ đồng, chiếm 1,3% tổng dư nợ.

Nợ tổn thất (nợ đã xử lý bằng dự phòng rủi ro và đang theo dõi ngoại bảng) 1.250 tỷ đồng.

Hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng trên địa bàn khá ổn định. Tỷ giá vàng và ngoại tệ diễn biến theo xu hướng chung của cả nước và thế giới.

Hệ thống ngân hàng trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các giải pháp của chính sách tiền tệ; tập trung các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho tổ chức, cá nhân vay vốn bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, hạn hán, xâm nhập mặn ... như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí không chuyển nhóm nợ, cân đối tài chính, chủ động tiết giảm chi phí hoạt động để có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất cho vay; triển khai các sản phẩm tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân phục hồi sản xuất kinh doanh...

3. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Ba tăng 0,48% so với tháng trước. Trong đó: khu vực thành thị tăng 0,07%, khu vực nông thôn tăng 0,73%. CPI tháng Ba tăng khá cao là do có 8 nhóm hàng tăng, trong đó nhóm giao thông tăng nhiều nhất với mức tăng 3,86%; kế đến là nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,47%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD tăng 0,39%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,21%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,14% (trong đó: ăn uống ngoài gia đình tăng 0,72%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%; nhóm giáo dục tăng 0,02% và nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%. Có 02 nhóm hàng giảm giá đó là; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,25% và nhóm may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,04%. Còn lại các nhóm hàng bưu chính viễn thông bình ổn giá.

So với tháng 12 năm trước (sau 3 tháng) chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 1,83%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 10 nhóm hàng tăng, trong đó tăng cao nhất là nhóm giao thông tăng 7,58%; kế đến là nhóm nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,06% (trong đó ăn uống ngoài gia đình tăng 2,75%); nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,93%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 1,69%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,12%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,31%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,17%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,09% và nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,09%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giá vẫn bình ổn.

Chỉ số giá vàng: tháng Ba tăng 3,10% so với tháng trước và tăng 6,37% so với cùng kỳ năm trước. Giá vàng bình quân tháng Ba là 5.494.000 đồng/chỉ, tăng 165.000 đồng/chỉ so với tháng trước.

Chỉ số giá Đô la Mỹ: tháng Ba tăng 0,75% so tháng trước, so cùng tháng năm trước giảm 0,62% và tăng 0,14% so với tháng 12 năm trước. Giá USD bình quân tháng Ba là 2.298.300 đồng/100 USD, tăng 17.000 đồng/100 USD so với tháng trước.

 4. Đầu tư và xây dựng

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng Ba (Số giải ngân đến 15/3/2022) ước tính 79,02 tỷ đồng, chỉ bằng 56,84% so với tháng trước, giảm 19,07% so cùng tháng năm trước. Trong đó: vốn cân đối ngân sách địa phương 55,53 tỷ đồng, giảm 23,88% so tháng trước, tăng 100,89% so cùng tháng năm trước. Tính chung quý I, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước ước thực hiện 263,85 tỷ đồng, mới đạt 5,15% kế hoạch năm, tăng 44,16% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn cân đối ngân sách địa phương 174,30 tỷ đồng, đạt 4,43% kế hoạch năm, tăng 54,21% so cùng kỳ; vốn xổ số kiến thiết được 122,21 tỷ đồng, đạt 7,64% kế hoạch, tăng 28,20% so cùng kỳ.

Hoạt động xây dựng của tỉnh trong quý I năm 2022 có nhiều thuận lợi do nhiều công trình lớn, cơ sở hạ tầng đang trong giai đoạn phát triển, các cụm tuyến dân cư đẩy nhanh tốc độ theo chủ trương của tỉnh. Bên cạnh đó còn có một số dự án mới được tỉnh phê duyệt, đã và đang đi vào xây dựng kết cấu hạ tầng.

Tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng (theo giá so sánh 2010) đạt hơn 5.050 tỷ đồng, tăng 2,25% so với năm trước. Trong đó, công trình nhà ở đạt 2.946,35 tỷ đồng, tăng 5,44%; công trình nhà không để ở đạt 1.040,87 tỷ đồng, giảm 11,51%. Riêng công trình kỹ thuật dân dụng đạt 594,07 tỷ đồng, tăng 13,74% so cùng kỳ năm trước và hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 469,58 tỷ đồng, tăng 5,10% so cùng kỳ.

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Tình hình hoạt động của doanh nghiệp quý I năm 2022 đã từng bước khôi phục để trở lại sản xuất kinh doanh trong điều kiện mới. Tính đến ngày 15 tháng 3 năm 2022, số doanh nghiệp được thành lập mới là 374 doanh nghiệp, tăng 42 doanh nghiệp (tăng 112,65%) so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp giải thể là 65 doanh nghiệp, không tăng giảm so cùng kỳ năm trước, phần lớn các doanh nghiệp giải thể là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hoạt động không hiệu quả. Số doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động 286 DN, tăng 148,96% so cùng kỳ; số doanh nghiệp hoạt động trở lại 181 DN, giảm 5,73% so cùng kỳ năm trước.

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

6.1. Nông nghiệp

Các địa phương cùng với ngành chức năng đã chủ động ứng phó, triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn; bố trí lịch thời vụ sản xuất từng vụ lúa ở từng địa phương trong tỉnh một cách hợp lý nhằm né sâu bệnh, chống hạn hán, xâm nhập mặn; quản lý, vận hành điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nên đã giảm thiểu thiệt hại trong sản xuất.

Về trồng trọt:

Vụ mùa (2021-2022): năm nay thời tiết thuận lợi, ít sâu bệnh nên nông dân gieo trồng sớm; so với cùng kỳ năm trước thì diện tích gieo trồng, thu hoạch và năng suất đều tăng. Kết thúc gieo trồng lúa mùa diện tích đạt 67.251 ha, vượt 10,85% so kế hoạch và tăng 15,17% so cùng kỳ năm trước (tăng 8.856 ha). Đến nay đã thu hoạch dứt điểm 67.251 ha, đạt 100% diện tích gieo trồng, tăng 23,15% so cùng kỳ (tăng 12.642 ha), với năng suất thu hoạch ước đạt 5,38 tấn/ha; sản lượng đạt 361.796 tấn, tăng 36,29% so với vụ mùa năm trước. Lúa mùa tập trung ở các huyện như: Gò Quao, Vĩnh Thuận, An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Giang Thành và thành phố Hà Tiên.

Vụ Đông Xuân (2021-2022): toàn tỉnh đã kết thúc gieo trồng được 283.868 ha, vượt 0,31% kế hoạch[2], giảm 0,21% so cùng kỳ năm trước (giảm 600 ha). Đến nay đã thu hoạch 138.624 ha, ước tính năng suất trên trà lúa đã thu hoạch đạt 7,26 tấn/ha.

Nhìn chung, lúa đông xuân năm nay phát triển tốt, ít sâu bệnh. Diện tích nhiễm bệnh là 12.135 ha với các đối tượng gây hại chủ yếu như bệnh lem lép hạt, bệnh vàng lá chín sớm, bệnh đạo ôn cổ bông, rầy nâu và cháy bìa lá…

Cây trồng khác:

Cùng với cây lúa, một số cây rau màu chủ yếu cũng được bà con nông dân gieo trồng nhằm tăng thêm thu nhập như: dưa hấu 485 ha, giảm 18,21% so với năm trước; khoai lang 595 ha, giảm 14,76%; khoai mì 187 ha, giảm 3,11%; bắp 121 ha, giảm 6,20%; rau, đậu các loại 4.042 ha, giảm 28,14%.

Chăn nuôi: tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn ổn định; dịch bệnh được kiểm soát, bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò đã cơ bản được khống chế và không ghi nhận ổ dịch cúm gia cầm trên phạm vi toàn tỉnh. Tuy nhiên, trong điều kiện thời tiết diễn biến bất lợi và số lượng đàn gia súc, gia cầm đa phần chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán trong các nông hộ, điều kiện an toàn sinh học còn nhiều hạn chế, tình trạng vận chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm không đúng quy định còn diễn ra; vi rút viêm da nổi cục rất nguy hiểm, có khả năng tồn lưu lâu trong môi trường, đường lây truyền phức tạp; hơn nữa qua giám sát mầm bệnh chủ động đã phát hiện sự lưu hành ở mức khá cao của vi rút cúm A/H5N1 trên đàn gia cầm trong dân và mua bán tại các chợ Tân Hiệp, Giồng Riềng, Gò Quao,... Để phát triển chăn nuôi, ngành nông nghiệp đang tập trung chỉ đạo, triển khai nhanh mô hình chăn nuôi an toàn sinh học trên các đối tượng vật nuôi, đồng thời cập nhật kịp thời tình hình dịch tễ trên đàn gia súc, gia cầm, nhất là ở các địa bàn giáp ranh với các tỉnh.

6.2. Lâm nghiệp

Công tác chăm sóc và bảo vệ rừng thường xuyên được quan tâm. Các ngành chức năng thường xuyên phối hợp với các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao kiến thức về phòng chống cháy rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, duy trì thường xuyên công tác chăm sóc, bảo vệ rừng, chống chặt phá rừng nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại. Thực hiện Kế hoạch khoanh nuôi, chăm sóc rừng trong năm đã có 2.892 ha rừng được chăm sóc, tăng 0,05% so với năm trước và diện tích rừng được khoán bảo vệ 3.100 ha, đạt 31,70% kế hoạch, giảm 0,03% so với năm trước.

6.3. Thủy sản

Quý I, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn, chiến tranh giữa Nga – Ukraine đã đẩy giá xăng dầu tăng cao kỷ lục trong nhiều năm qua, từ đó làm ảnh hưởng đến tình hình khai thác hải sản rất nhiều, không chỉ do cạn kiệt ngư trường, mà do giá xăng, dầu tăng cao, vật tư, ngư lưới cụ đánh bắt cũng tăng làm cho chi phí sản xuất tăng lên, trong khi giá bán sản phẩm khai thác thiếu ổn định theo hướng bất lợi cho ngư dân, dẫn đến hiệu quả khai thác thấp, nên số phương tiện nằm bờ, ngưng hoạt động khá lớn.

Sản lượng nuôi trồng và khai thác sụt giảm dẫn đến giá trị sản xuất trong quý I năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước.

Giá trị sản xuất thủy sản (giá so sánh 2010): tháng Ba ước tính đạt 2.011,77 tỷ đồng, tăng 14,46% so với tháng trước, nhưng giảm 6,07% so cùng kỳ[3] năm trước. Tính chung quý I ước tính đạt 5.870,55 tỷ đồng, đạt 18,57% kế hoạch năm, giảm 4,72% so với cùng kỳ năm trước[4].

Sản lượng thủy sản (cả khai thác và nuôi trồng): tháng Ba ước tính đạt 59.544 tấn, tăng 11,33% so với tháng trước, giảm 8,06% so cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I ước đạt 173.650 tấn, đạt 21,62% kế hoạch năm; giảm 4,50% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cá các loại đạt 111.075 tấn, giảm 6,14%; tôm các loại 21.232 tấn, giảm 6,93%; mực 16.127 tấn, giảm 7,12% và thủy sản khác 25.216 tấn, tăng 8,20%. Sản lượng thủy sản khai thác: ước đạt 128.709 tấn, đạt 26,37% kế hoạch năm và giảm 6,38% so với cùng kỳ năm trước[5] (giảm 8.778 tấn). Sản lượng thủy sản nuôi trồng: ước tính đạt 44.941 tấn, đạt 14,27% kế hoạch năm và tăng 1,31% so với cùng kỳ năm trước[6]. Sản lượng nuôi trồng tăng so với tháng trước trên 02 nhóm thủy sản là tôm các loại và thủy sản khác.

7. Sản xuất công nghiệp

Tình hình sản xuất công nghiệp trong tháng Ba và quý I của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cá thể trên địa bàn tỉnh đã hoạt động bình thường trở lại.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP): tháng Ba chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 12,97% so với tháng trước và tăng 14,45% so cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 13,55%[7]; ngành khai khoáng tăng 14,04%. Tính chung quý I, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10,65% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 15,64%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,08%[8].

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): tháng Ba ước tính đạt 3.570,59 tỷ đồng, tăng 13,42% so với tháng trước và tăng 17,97% so với cùng kỳ năm trước[9]. Tính chung quý I, giá trị sản xuất công nghiệp ước tính 10.904,76 tỷ đồng, đạt 21,34% kế hoạch năm, tăng 10,63% so với cùng kỳ năm trước.[10]

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu quý I tăng so với cùng kỳ năm trước như: giày da đạt 60,12% kế hoạch năm, tăng 92,25%; bao bì PP đạt 47,04 kế hoạch năm, tăng 51,08%; gỗ MDF đạt 32,14% kế hoạch năm, tăng 26,77%; xay xát gạo đạt 23,33% kế hoạch năm, tăng 19,33%; nước máy đạt 25,21% kế hoạch năm, tăng 9,47%; điện thương phẩm đạt 24% kế hoạch năm, tăng 7,18%... Bên cạnh đó cũng còn một số sản phẩm đạt kế hoạch thấp và giảm so với cùng kỳ năm trước như: Clinker đạt 22,07%, giảm 14,61%; nước đá đạt 22,77%, giảm 7,56%; bia các loại đạt 27,91%, giảm 6,07%; xi măng đạt 24,69%, giảm 5,79%; mực đông lạnh đạt 24,13%, giảm 0,85%...

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo tháng Ba, tăng 8,72% so tháng trước và tăng 1,42% so cùng tháng năm trước. Ước tính quý I, tăng 4,44% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành tăng so với cùng kỳ như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,24%; sản xuất đồ uống tăng 5,37%.... Tuy nhiên, vẫn có một số ngành chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ như: chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 74,50%; sản xuất trang phục giảm 32,90%...

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến chế tạo tháng Ba bằng 100,34% so với tháng trước và chỉ bằng 23,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sản xuất chế biến thực phẩm bằng 44,42% cùng kỳ năm trước; sản xuất đồ uống bằng 14,01% cùng kỳ năm trước...

Chỉ số sử dụng lao động của ngành công nghiệp tháng Ba năm 2022 tăng 1,38% so với tháng trước và tăng 19,82% so với tháng cùng kỳ năm trước. Ước tính quý I năm 2022 tăng 13,43% so cùng kỳ năm trước.

8. Thương mại, dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý I năm nay đã có xu hướng tăng trưởng tốt hơn cùng kỳ năm trước, mặt khác tình hình phòng chống dịch đã chuyển sang trạng thái mới đảm bảo phù hợp để phát triển kinh tế. Thị trường bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng có nhiều chuyển biến tích cực. Đồng thời, nguồn cung các mặt hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm trên thị trường hiện vẫn dồi dào, phong phú. Tuy nhiên, trước tác động của dịch bệnh Covid – 19 với biến thể Omicron vẫn còn ảnh hưởng đên các hoạt động dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng Ba ước đạt 10.101,94 tỷ đồng, tăng 2,30% so tháng trước, tăng 5,20% so cùng tháng năm trước. Tính chung quý I ước đạt 29.935,25 tỷ đồng, đạt 23,95% kế hoạch năm, tăng 1,55% so với năm trước. Chia theo ngành hoạt động:

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng Ba ước đạt 7.792,76 tỷ đồng, tăng 3,40% so tháng trước, tăng 5,86% so cùng tháng năm trước. Tính chung quý I ước đạt 23.176,07 tỷ đồng, đạt 24,27% kế hoạch, tăng 4,04% so với năm trước. 

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống tháng Ba ước đạt 1.175,10 tỷ đồng, giảm 0,55% so tháng trước, tăng 4,79% so cùng tháng năm trước. Tính chung quý I ước đạt 3.517,90 tỷ đồng, đạt 24,95% kế hoạch năm, giảm 0,81% so với cùng kỳ.

Doanh thu du lịch lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch tháng Ba ước đạt 25,26 tỷ đồng, giảm 9,24% so tháng trước, giảm 9,23% so cùng tháng năm trước. Tính chung quý I ước đạt 81,82 tỷ đồng, đạt 27,27% kế hoạch, giảm 21,58% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng Ba ước đạt 1.108,82 tỷ đồng, giảm 1,71% so tháng trước, tăng 1,52% so cùng tháng năm trước. Tính chung quý I ước đạt 3.570,39 tỷ đồng, đạt 23,64% kế hoạch, tăng 0,55% so với cùng kỳ.

8.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2022, ước đạt 195,66 triệu USD, tăng 6,49% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 7,73%; nhập khẩu tăng 0,79%.

Tận dụng cơ hội từ các Hiệp định thương mại trong đó có Hiệp định Thương mại tự do EVFTA có hiệu lực thực thi trong thời gian qua đã phần nào được xem là điểm sáng trong hoạt động xuất, nhập khẩu. Hiệp định đã mang lại nhiều cơ hội lớn và tạo cú hích mạnh mẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Kiên Giang nói riêng có thêm động lực để phát triển và hòa nhập sâu rộng vào thị trường châu Âu, phát triển thêm các chuỗi giá trị cung ứng bền vững, tìm kiếm sự hợp tác đầu tư thương mại để mở rộng thêm thị trường xuất khẩu.

Xuất khẩu: tháng Ba ước đạt 56 triệu USD, tăng 29,27% so với tháng trước, giảm 18,76% so với cùng tháng năm trước. Tính chung quý I, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính 162,69 triệu USD, đạt 20,86% kế hoạch năm, tăng 7,73% so với cùng kỳ năm trước[11]. Các mặt hàng xuất chủ yếu là thủy sản, gạo, nguyên liệu giày da và hàng hóa khác.

Nhập khẩu: tháng Ba ước đạt 11 triệu USD, tăng 7,42% so với tháng trước, giảm 13,04% so cùng tháng năm trước. Tính chung quý I, trị giá hàng hóa nhập khẩu ước tính 32,97 triệu USD, đạt 25,36% kế hoạch năm, tăng 0,79% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và xăng dầu các loại.

8.3. Công tác quản lý thị trường

Quý I, là thời điểm diễn ra tết Dương lịch, tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022, thị trường cung cầu hàng hóa, giá cả, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ổn định, nguồn cung hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân; tỉnh đã tổ chức đưa các chuyến hàng về nông thôn, vùng sâu, vùng xa phục vụ nhân dân và triển khai kế hoạch về bình ổn thị trường Tết, các loại hàng hóa đưa vào phục vụ chủ yếu là hàng Việt Nam, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đảm bảo an toàn thực phẩm. Lực lượng Quản lý thị trường thực hiện cao điểm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, không để phát sinh điểm nóng về hàng cấm, hàng lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Tuy nhiên, tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn vẫn còn xảy ra, các hành vi vi phạm phổ biến như: buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, về đo lường, chất lượng, nhãn hàng hóa, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, điều kiện quy định trong kinh doanh, an toàn thực phẩm, vi phạm khác... các vụ việc vi phạm phát hiện đều được xử lý kịp thời, đúng quy định pháp luật.

Trong quý I, ngành Quản lý thị trường đã kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm 244 vụ, đạt 122% kế hoạch quý (trong đó: kế hoạch định kỳ 189 vụ, đột xuất 55 vụ); phát hiện 48 vụ vi phạm; xử lý 46 vụ vi phạm hành chính (bao gồm cả số vụ kỳ trước chuyển sang). Tổng số tiền thu phạt gần 1,40 tỷ đồng (trong đó: phạt hành chính hơn 1,29 tỷ, bán hàng hóa tịch thu hơn 102 triệu đồng, đạt 139,95% kế hoạch quý). Các vụ vi phạm chủ yếu là vi phạm về bán, vận chuyển, lưu trữ hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ; gian lận thương mại và vi phạm khác. Các vụ việc vi phạm phát hiện đều được xử lý kịp thời và đúng quy định.

8.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách: tháng Ba ước tính vận chuyển 6,93 triệu lượt khách, tăng 2,73% so tháng trước, giảm 0,66% so với tháng cùng kỳ. Luân chuyển 466,31 triệu HK.km, tăng 2,74% so với tháng trước, tăng 0,11% so tháng cùng kỳ. Tính chung quý I, vận tải hành khách ước đạt hơn 18,92 triệu lượt khách, đạt 24,33% kế hoạch năm, giảm 11,58% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 1.274,45 triệu HK.km, đạt 24,70% kế hoạch năm, giảm 10,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận chuyển hành khách đường bộ giảm 10,70%, vận chuyển hành khách đường thuỷ (đường sông và đường biển) giảm 15,49%.

Vận tải hàng hóa: tháng Ba ước tính vận chuyển hơn 1,24 triệu tấn, tăng 4,09% so tháng trước, tăng 3,06% so tháng cùng kỳ; luân chuyển 179,53 triệu tấn, tăng 4,25% so với tháng trước, tăng 3,40% so tháng cùng kỳ. Tính chung quý I, hàng hóa vận chuyển ước tính hơn 3,67 triệu tấn, đạt 24,13% kế hoạch năm, tăng 0,88% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận chuyển hàng hóa đường bộ tăng 0,70%, vận tải hàng hóa đường biển tăng 1,13%; luân chuyển gần 529 triệu tấn.km, đạt 24,25% kế hoạch năm, tăng 1,24% so với cùng kỳ năm trước.

8.5. Du lịch

Các ngành chức năng đang triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nhằm kích cầu du lịch nội địa trở lại và thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid – 19 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Trong quý I năm 2022, đã tổ chức tiếp và đón các Đoàn Lãnh sự quán các nước Thái Lan, Ấn Độ đến với Kiên Giang để xúc tiến, quảng bá du lịch, nhằm giới thiệu những tiềm năng, thế mạnh, hình ảnh, vùng đất và con người Kiên Giang đến với du khách trong nước và quốc tế. Mặc khác, các doanh nghiệp lữ hành, các cơ sở kinh doanh du lịch thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid – 19; tổ chức nhiều tour, các chương trình, sự kiện chào mừng tết Nguyên đán phong phú, hấp dẫn, góp phần tạo ấn tượng với du khách khi đến tham quan, trải nghiệm. Bên cạnh đó, việc hãng hàng không Bamboo Airways khai trương đường bay nội tỉnh Rạch Giá – Phú Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu đi lại của người dân địa phương. Nhìn chung các chỉ tiêu du lịch trong quý I năm 2022 đã có tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tổng lượt khách du lịch trên địa bàn tỉnh tháng Ba ước đạt 507,58 ngàn lượt khách, giảm 31,84% so với tháng trước, tăng 35,84% so với cùng kỳ. Quý I ước đạt 1.578,64 ngàn lượt khách, đạt 28,19% kế hoạch năm và tăng 31,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch là 663,30 ngàn lượt khách, đạt 28,84% kế hoạch, tăng 5,18% so với cùng kỳ năm trước.

9. Một số tình hình xã hội

9.1. Lao động, việc làm và đào tạo nghề

Tháng Ba, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 2.913 lượt lao động, trong đó: trong tỉnh là 1.673 lượt lao động, ngoài tỉnh 1.239 lượt lao động, người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 01 người. Tính chung quý I đã giải quyết việc làm cho 9.680 lượt lao động, đạt 27,66% kế hoạch năm, tăng 5,24% so cùng kỳ [12].

Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển sinh, đào tạo mới 4.132 người, (trung cấp 27 người, sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên 4.105 người), nâng tổng số lao động được đào tạo trong quý I lên 4.790 người[13], đạt 19,96% so kế hoạch và tăng 175,60% so với cùng kỳ năm trước.

9.2. Về chính sách an sinh xã hội

UBND tỉnh tổ chức các đoàn lãnh đạo tỉnh thăm, tặng quà cho các đơn vị lực lượng vũ trang, bệnh viện, trường, trại, trung tâm và các đối tượng chính sách, người có công, người cao tuổi nhân dịp tết Nguyên đán Nhâm dần năm 2022. Tổng số đối tượng được hỗ trợ là 108.693 người với tổng số kinh phí hỗ trợ trong dịp tết trên 50 tỷ đồng.

Thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Lập danh sách, tiếp nhận kinh phí tặng quà từ quỹ thiện tâm nhân kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh – liệt sĩ cho 104 thương binh, bệnh binh nặng, tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên với tổng kinh phí 01 tỷ 560 triệu đồng. Tiếp tục thực hiện tốt việc hỗ trợ cho hộ nghèo có thành viên thuộc đối tượng người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh.

9.3. Tình hình Giáo dục

Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng môi trường giáo dục, đổi mới việc tổ chức hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trọng tâm; tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên về kỹ năng đánh giá trẻ, điều chỉnh kế hoạch giáo dục và định hướng phát triển chương trình giáo dục mầm non tại nhà trường.              Tiếp tục thực hiện hỗ trợ và nâng cao các kỹ năng dạy học trực tuyến cho giáo viên,   đã tổ chức 08 đợt tập huấn ở cấp tiểu học và trung học với 113 lớp cho hơn 11.047 lượt giáo viên tiểu học tham gia; 98 lớp với 7.165 học sinh trung học tham gia (trong đó: THCS 63 lớp với 4.715 lượt giáo viên; THPT 35 lớp với 2.450 lượt giáo viên tham gia). Duy trì tốt việc tuyên truyền, nhắc nhở học sinh đeo khẩu trang thường xuyên, hạn chế ăn uống, tiếp xúc gần, vui đùa trong trường, trong lớp nhằm hạn chế lây lan dịch bệnh.

Năm học 2021 – 2022, toàn tỉnh có 639 trường học (trong đó mầm non 160 trường; giáo dục phổ thông 479 trường) và 01 trung tâm giáo dục thường xuyên. Toàn tỉnh hiện có 293/615 cơ sở giáo dục công lập đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 47,64%, vượt 0,64% so với chỉ tiêu đề ra.

9.4. Hoạt động Văn hóa, Thể thao

Hoạt động Văn hóa: Trong quý tập trung tuyên truyền, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và gia đình phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị; nhất là tuyên truyền kỷ niệm 76 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên (06/01/1946 - 06/01/2022); kỷ niệm 72 năm ngày truyền thống học sinh, sinh viên và Hội sinh viên Việt Nam (09/01/1950 - 09/01/2022); tham gia các hoạt động “Tết Quân - Dân” năm 2022; nhất là tuyên truyền kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2022), kỷ niệm 67 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/02/1955 - 27/02/2022).

 Công tác gia đình được quan tâm chỉ đạo, nhấn mạnh vai trò của giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyên ngành như: pháp chế, tổ chức cán bộ, kế hoạch tài chính, cấp phép, thẩm định, thanh tra, kiểm tra được chú trọng, tổ chức thường xuyên, kịp thời, đảm bảo các hoạt động văn hóa và thể thao diễn ra lành mạnh, an ninh, trật tự.

Hoạt động thể dục thể thao:

Thể dục thể thao quần chúng: theo dõi tình hình diễn biến của dịch Covid - 19, để tổ chức các sự kiện thể dục, thể thao trong tình hình mới và tổ chức Đại hội TDTT cơ sở trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp. Phòng văn hóa và thông tin, trung tâm văn hóa, thể thao và truyền thanh các huyện, thành phố bên cạnh tổ chức các hoạt động thể dục thể thao quần chúng vẫn tiếp tục thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid – 19 tại địa phương.

Thể thao thành tích cao: cử đội tuyển Cờ vua tham dự giải vô địch Cờ vua quốc gia từ ngày 22/02/2022 – 06/3/2022 tại Bắc Giang; cử đội tuyển Bắn cung tham dự Giải vô địch Cung thủ xuất sắc quốc gia từ ngày 26/02 – 07/3/2022 tại Thừa Thiên Huế.

9.5. Tình hình y tế, bảo hiểm

      - Y tế: thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, nâng cao sức khỏe nhân dân. Chỉ đạo các cơ sở y tế giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, sốt xuất huyết, tay chân miệng... Tăng cường tiêm chủng, điều trị và kiểm soát biến chủng Omicron bằng hình thức thực hiện tiêm vắc xin phòng Covid-19. Quản lý tốt các bệnh mãn tính, bệnh không lây và các bệnh có tính chất nguy hiểm cho cộng đồng gồm lao, phong, tâm thần. Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận thức của người dân về phòng, chống dịch bệnh, phòng chống HIV/AIDS, tiêm chủng mở rộng, an toàn vệ sinh thực phẩm, công tác dân số - KHHGĐ. Đảm bảo phục vụ y tế trong các ngày lễ, tết và các sự kiện lớn trong tỉnh.

Tình hình dịch Covid-19: từ khi xuất hiện dịch trên địa bàn đến ngày 20/3/2022, toàn tỉnh ghi nhận 37.082 trường hợp mắc Covid-19 (trong đó có 106 ca nhập cảnh và 36.976 ca nhiễm trong tỉnh), đã điều trị khỏi 34.434 trường hợp, 968 trường hợp tử vong, 1.680 trường hợp đang điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong tỉnh.

Hiện tại đang cách ly tập trung 1.842 trường hợp; cách ly tại nhà, nơi lưu trú 28.153 trường hợp; theo dõi sức khỏe tại nhà, nơi lưu trú 4.660 trường hợp. Tổng số trường hợp được lấy mẫu xét nghiệm Covid-19 là 384.041 trường hợp, trong đó trường hợp có kết quả dương tính 37.082 trường hợp.

Các các cơ sở y tế trong tỉnh đã khám, điều trị 1.031.989 lượt người, đạt 22,93% kế hoạch năm và giảm 4,18% so cùng kỳ (giảm 44.998 lượt người); điều trị nội trú khoảng 57.704 lượt người, đạt 22,19% kế hoạch và giảm 9,40% so cùng kỳ (giảm 5.990 lượt người). Tỷ lệ khám chữa bệnh y học cổ truyền hoặc kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại tổng số lượt khám và điều trị chung đạt 11%. Công suất sử dụng giường bệnh là 59,70%; tỷ lệ khỏi bệnh 88,58%, tỷ lệ tử vong là 0,12%.

Bệnh Sốt xuất huyết, bệnh Tay chân miệng, tiêu chảy, cúm mùa và bệnh sởi sốt phát ban nghi sởi có xu hướng giảm giảm so cùng kỳ[14]. Bệnh Lỵ Amip, uốn ván sơ sinh có xu hướng tăng so cùng kỳ. Không có trường hợp nào tử vong.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: thực hiện thanh, kiểm tra 3.414 cơ sở, giảm 1.149 cơ sở so cùng kỳ năm 2021. Trong đó: 2.754 cơ sở đảm bảo VSATTP theo quy định (chiếm 80,67%) và 660 cơ sở chưa đảm bảo VSATTP (chiếm 19,33%). Qua đó xử phạt vi phạm hành chính 03 cơ sở với số tiền 12,60 triệu đồng, tiêu hủy sản phẩm vi phạm tại 45 cơ sở gồm 44 loại sản phẩm với khối lượng gần 288 kg thực phẩm không có nhãn, quá hạn sử dụng, chứa hóa chất ngoài danh mục của Bộ Y tế. Trong quý I chưa ghi nhận trường hợp ngộ độc thực phẩm nào, giảm 21 ca so cùng kỳ năm 2021.

      - Bảo hiểm: quý I năm 2022 số người tham gia BHXH bắt buộc ước 94.599 người, đạt 90,69% kế hoạch, giảm 0,56% so cùng kỳ năm trước; tỷ lệ số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 46,53% kế hoạch, tăng 13,73% so cùng kỳ; tỷ lệ tham gia BH thất nghiệp đạt 89,77% kế hoạch và giảm 0,13% so cùng kỳ.

9.6. Tình hình an toàn giao thông

Tính từ ngày 15/02/2022 đến 14/3/2022, toàn tỉnh xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, làm 6 người chết, 7 người bị thương. So với tháng trước số vụ tai nạn giao thông tăng 02 vụ nhưng giảm 01 người chết, giảm 3 người bị thương. Tính chung quý I (từ 15/12/2021 đến 14/3/2022) toàn tỉnh xảy ra 32 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 30 vụ, đường thủy 02 vụ), làm 20 người chết, 15 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, giảm 09 vụ (giảm 21,95%), giảm 04 người chết (giảm 16,67%) và giảm 15 người bị thương (giảm 50%).

Tình hình tai nạn giao thông trong tháng Ba tăng hơn so với tháng trước (tăng trên 02 tiêu chí: tăng số vụ và số người bị thương, giảm số người chết). Tính chung từ đầu năm đến nay so với cùng kỳ năm trước đã giảm 03 trên 03 tiêu chí (giảm số vụ, giảm số người chết và giảm số người bị thương), đây là tín hiệu đáng mừng. Vì vậy, các ngành chức năng cần thường xuyên tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát và tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành Luật giao thông khi tham gia giao thông, để mọi người dân nâng cao ý thức khi tham gia giao thông, nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông trên địa bàn trong thời gian tới.

9.7. Tình hình cháy, nổ và thiên tai

Tình hình cháy, nổ: từ ngày 15/02/2022 đến 14/3/2022 toàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy, không xảy ra vụ nổ. Cụ thể như sau: 01 vụ cháy tàu đánh bắt thủy sản Biển kiểm soát KG-90947TS đang neo đậu tại sông Cái bé thuộc tổ 8, ấp An Bình, xã Bình An, huyện Châu Thành. Ước tính thiệt hại về tài sản khoảng 570 triệu đồng, nguyên nhân cháy đang được điều tra. Tính chung từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy, không có vụ nổ, không có người chết và bị thương. Thiệt hại về vật chất ước tính khoảng 1,74 tỷ đồng.

Tình hình thiên tai: từ ngày 15/02/2022 đến 14/3/2022 trên địa bàn tỉnh không xảy ra thiên tai. Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thời tiết thuận lợi, không xảy ra thiên tai.

10. Đề xuất kiến nghị

Tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong quý I còn cách xa mục tiêu cả năm. Để phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm đạt trên 6%, Cục Thống kê kiến nghị một số vấn đề như sau:

    1. Về nông nghiệp và thủy sản: chủ động đối phó các tình huống xấu của thời tiết, tập trung chỉ đạo thu hoạch vụ lúa đông xuân, triển khai sản xuất vụ hè thu theo kế hoạch đã đề ra, khuyến cáo nông dân gieo sạ đúng thời vụ, giảm mật độ gieo sạ để tiết giảm chi phí; đẩy mạnh việc thực hiện Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nhất là Đề án phát triển nuôi biển, Đề án phát triển chăn nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tăng cường truyên truyền giáo dục, kết hợp với kiên quyết xử lý các trường hợp khai thác hải sản vi phạm IUU để sớm gỡ thẻ vàng của châu Âu trong xuất khẩu thủy sản.

    2. Về sản xuất công nghiệp: kịp thời triển khai các gói hỗ trợ của Chính phủ theo Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP; hỗ trợ để nâng cao năng lực hội nhập quốc tế của cộng đồng doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về hội nhập quốc tế cho các doanh nghiệp.

    3. Về thương mại dịch vụ: đẩy mạnh xúc tiến thương mại để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là đối với mặt hàng tỉnh có thế mạnh là gạo và thủy sản; tận dụng tốt các cơ hội của các hiệp định thương mại để gia tăng xuất khẩu như, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với châu Âu (EVFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).

    4. Về du lịch: ngoài việc tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỉnh cần thực hiện tốt các biện pháp đảm bảo an toàn cho du khách, từ an toàn trong phòng chống dịch cho đến an toàn trong di chuyển, an toàn vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm ...để du khách yên tâm khi đến với Kiên Giang.

          - Về đầu tư: tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong triển khai các công trình dự án, cả về dự án đầu tư công và đầu tư tư nhân. Cần có biện pháp hữu hiệu để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư thuộc nguồn vốn nhà nước quản lý, nhất là các công trình trọng điểm có sức lan tỏa.

         - Về thực hiện an sinh xã hội: tiếp tục thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, huy động mọi nguồn lực thực hiện chính sách giảm nghèo, chú trọng hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo theo hướng đào tạo tay nghề cho lao động, cho vay vốn ưu đãi, ... để nâng cao thu nhập, phát triển sản xuất, thoát nghèo bền vững.

Tải về: - Số liệu Kinh tế - xã hội tháng 3 và Quý I năm 2022 của tỉnh Kiên Giang;

             - Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 năm 2022 của tỉnh Kiên Giang


[1]Tăng trưởng quý I của các năm: năm 2020 tăng 3,35%; năm 2021 4,14%.

[2] Diện tích gieo trồng ở các huyện như Hòn Đất 80.000 ha, Giồng Riềng 46.659 ha, Tân Hiệp 36.803 ha, Giang Thành 29.280 ha, Gò Quao 25.245 ha, Kiên Lương 23.500 ha, Châu Thành 19.151 ha, An Biên 7.439 ha, U Minh Thượng 6.485 ha, Rạch Giá 5.488 ha, Vĩnh Thuận 3.818 ha.

[3] Chia ra: Giá trị khai thác tăng 9,44% so tháng trước, giảm 9,43% so cùng kỳ; giá trị nuôi trồng tăng 22,73% so tháng trước, giảm 0,67% so cùng kỳ.

[4] Chia ra: Giá trị khai thác giảm 5,96% so cùng kỳ; giá trị nuôi trồng giảm 2,83% so cùng kỳ.

[5] Trong đó cá các loại giảm 6,77% (giảm 7.023 tấn); mực giảm 7,12% (giảm 1.237 tấn).

[6] Trong đó: cá nuôi giảm 1,70% (giảm 249 tấn) so với cùng kỳ và đạt 13,46% kế hoạch năm; tôm các loại giảm 6,92% (1.015 tấn) so với cùng kỳ và đạt 12,57% kế hoạch năm.

[7] Trong đó: ngành chế biến thực phẩm tăng 8,58%; ngành sản xuất đồ uống tăng 39,34%...

[8] Trong đó: ngành sản xuất đồ uống giảm 25,10%, ngành chế biến thực phẩm tăng 9,52%...

[9] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 93,55%/ trong tổng số, tăng 17,69%.

[10] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 93,88%/ trong tổng số, tăng 10,43%.

[11] Trong đó: hàng nông sản 47,85 triệu USD, đạt 17,79% kế hoạch, giảm 3,64% so cùng kỳ; hàng thủy sản 57,02 triệu USD, đạt 21,52% kế hoạch, tăng 18,27% so cùng kỳ; nguyên liệu Giày da 25,77 triệu USD, đạt 19,82% kế hoạch, giảm 22,57% so cùng kỳ.

[12] Trong đó: trong tỉnh 5.309 lượt người, ngoài tỉnh 4.368 lượt người, người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là 03 người.

[13] Trong đó: trung cấp 27 người, sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên 4.763 người.

[14] Sốt xuất huyết có 70 cas mắc (giảm 150 cas so cùng kỳ). Tay chân miệng có 02 cas mắc (giảm 527 cas so cùng kỳ), Sởi sốt phát ban nghi sởi 0 cas . Không có trường hợp nào tử vong.

 

Số lần đọc: 623
Cục thống kê Kiên Giang
Tin liên quan