Tin nóng
12.12.2013
Tổng sản lượng thủy sản được 532.609 tấn, đạt 90,46% kế hoạch năm và tăng 6,34% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá các loại đạt 317.439 tấn, tăng 5,45%; tôm đạt 73.777 tấn, tăng 2,83%.

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng đầu năm 2013

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a. Nông nghiệp

* Sản xuất lúa năm 2013: Sơ bộ tổng diện tích gieo sạ 5 vụ lúa được 770.379ha, vượt 4,98% kế hoạch (tăng 36.529 ha) và tăng 6,24% so năm 2012 (tăng 45.252ha). Vụ Thu đông có diện tích tăng nhiều nhất 14,5 ngàn ha so kế hoạch tỉnh và 24,5 ngàn ha so năm trước, diện tích gieo sạ năm nay tăng do chủ động được nguồn nước tưới tiêu, không bị mặm xâm nhập nên nông dân các huyện tranh thủ gieo trồng tăng thu nhập.

Năng suất cả năm sơ bộ đạt 58,05 tạ/ha, giảm 1,96 tạ/ha so với kế hoạch và giảm 1,07 tạ/ha so năng suất cả năm 2012,  nguyên nhân giảm năng suất các vụ do năm nay đất kém có phù sa do lũ; thời tiết trong giai đoạn lúa đang phát triển và thu hoạch không thuận lợi, ngoài ra diện tích lúa vụ đông xuân bị nhiễm sâu bệnh nhiều 34.919 ha, tăng 2,2 lần so vụ đông xuân năm trước.

Tổng sản lượng sơ bộ đạt 4.471.817 tấn, vượt 1,56% kế hoạch năm (tăng 68,5 ngàn tấn) và tăng 4,31% so năm 2012 (tăng 184,6 ngàn tấn).

* Sản xuất lúa năm 2014: Tính đến trung tuần tháng 11 toàn tỉnh gieo sạ được 62.306ha lúa mùa, bằng 95,86% so cùng kỳ năm trước, trong đó huyện An Minh được 30.900 ha; Vĩnh Thuận 11.639 ha; An Biên 8.048 ha; U Minh Thượng 6.926 ha; Gò Quao 1.341 ha và Hà Tiên 451 ha. Lúa sinh trưởng và phát triển bình thường. Song song với gieo sạ lúa vụ mùa các địa phương này cũng tranh thủ sạ lúa vụ đông xuân sớm, tính đến nay diện tích gieo sạ được 39.250 ha, bằng 99,24% so vụ này năm trước.

Hiện diện tích lúa bị nhiễm sâu bệnh tương đương năm trước, trên lúa mùa là 3.794 ha và lúa đông xuân sớm 1.356 ha, trong đó bệnh cháy lá 1.804 ha (lúa mùa nhiễm 1.233ha), ngộ độc mặn 1.988 ha, ngoài ra ốc bươu vàng, bệnh đốm sọc vi khuẩn, bệnh vàng lá vi khuẩn, rầy nâu nhiễm số không đáng kể từ 110ha đến 333ha.

Cây rau màu: Để cải thiện đời sống, trong tháng nông dân một số huyện đã gieo trồng được 366 ha rau màu các loại, tăng trên 9,5% so cùng kỳ năm trước, huyện có diện tích trồng rau màu khá như: Châu Thành 118 ha, Hòn Đất 70 ha, Giồng Riềng 60 ha, Gò Quao 50 ha...

Chăn nuôi: Qua kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm ngày 01/10/2013, tổng đàn gia súc gia cầm của tỉnh như sau: Đàn trâu 7.085 con, bằng 88,56% kế hoạch và giảm 9,91% so cùng kỳ năm trước; đàn bò 9.681 con, bằng 84,18% kế hoạch và giảm 9,72% so cùng kỳ; đàn heo 328,5 ngàn con, bằng 93,87% kế hoạch và giảm 3,02% so cùng kỳ (giảm 10.229 con); đàn gia cầm 5.135 ngàn con, bằng 88,92% kế hoạch và giảm 14,57% so cùng kỳ (giảm 876 ngàn con). Số lượng đàn gia súc, gia cầm hiện chưa đạt kế hoạch đề ra và giảm so cùng kỳ, do từ đầu năm xảy ra 3 ổ dịch cúm gia cầm và giá sản phẩm chăn nuôi giữ mức thấp người dân chưa yên tâm phát triển đàn.

Nhưng hiện tình hình chăn nuôi có điều kiện phát triển trở lại, khi giá sản phẩm chăn nuôi đang tăng, nhất là giá heo hơi từ 44.500đ đến 46.000đ/kg, tăng 11.000đ/kg so cùng kỳ năm trước, dịch bệnh đang kiểm soát khá tốt, không để phát sinh ổ dịch, đồng thời công tác tiêm phòng vẫn tiếp tục duy trì thường xuyên.

b. Lâm nghiệp

Từ đầu năm đến nay diện tích rừng được chăm sóc 6,6 ngàn ha, tăng 0,57% so cùng kỳ; diện tích giao khoán bảo vệ rừng được 14.000 ha, vượt 1,08% kế hoạch và tăng 21,53% so cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán trên 1,2 ngàn cây, vượt 77,14% kế hoạch và tăng 0,4% so cùng kỳ năm 2012. Việc tăng cường công tác tuyên truyền ý thức người dân bảo vệ rừng và tuần tra kiểm soát của ngành chức năng,x số vụ vi phạm chặt phá rừng từ đầu năm đến nay giảm 18 vụ so năm trước và chưa để xảy ra vụ cháy nào đáng kể.

c. Thủy sản

Giá trị sản xuất thủy sản (giá so sánh 2010) tháng 11 ước tính đạt 1.656,5 tỷ đồng, bằng 88,09% so tháng trước và tăng 4,36% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 11 tháng giá trị sản xuất thủy sản đạt được 17.365,4 tỷ đồng, tăng 6,63% so cùng kỳ, bao gồm: giá trị khai thác 10.147,3 tỷ đồng, tăng 5,29% và giá trị nuôi trồng 7.218,1 tỷ đồng, tăng 8,58%. Tổng sản lượng thủy sản được 532.609 tấn, đạt 90,46% kế hoạch năm và tăng 6,34% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá các loại đạt 317.439 tấn, tăng 5,45%; tôm đạt 73.777 tấn, tăng 2,83%.

Về khai thác: Sản lượng tháng 11 ước tính được gần 37.249 tấn thủy sản các loại, tăng 0,13% so tháng trước (tăng 50 tấn) và tăng 3,35% so cùng kỳ (tăng 1.209 tấn). Bao gồm: cá biển đạt 23.893 tấn, bằng 95,97% (giảm 1.004 tấn), tôm đạt 2.925 tấn, bằng 87,21% (giảm 429 tấn) mực đạt 4.267 tấn, tăng 3,12%,  (tăng 129 tấn) và hải sản khác đạt 5015 tấn, tăng 99,88% (tăng 2.506 tấn).

Tính chung sản lượng 11 tháng ước đạt 400.164 tấn, đạt 91,89% kế hoạch, tăng 3,78% so cùng kỳ (tăng 14.559 tấn). Trong đó cá đạt 266.357 tấn, tăng 3,78%, (tăng 9.704 tấn), tôm đạt 36.125 tấn, tăng 2,99%, (tăng 1.048 tấn), mực đạt 51.518 tấn, tăng 6,36%, (tăng 3.085 tấn) và thủy sản khác đạt 46.164 tấn, tăng 1,59%, (tăng 722 tấn).

Sản lượng khai thác tháng này tăng nhẹ so tháng trước, do bão đã giảm, nhưng trong năm nay mặc dù số tàu khai thác xa bờ có công suất lớn tăng 230 chiếc nhưng sản lượng khai thác 11 tháng qua chỉ tăng 14,5 ngàn tấn so KH, tình hình khai thác trong năm nay còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng của bão nhiều, chi phí cho chuyến biển cao, giá cả sản phẩm khai thác thiếu ổn định, nguồn hải sản bị cạn dần.

Về nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng tháng 11 ước đạt 13.434 tấn thủy sản các loại, tăng 10,92% so cùng kỳ (tăng 1.323 tấn). Trong đó cá nuôi các loại đạt 5.150 tấn, tăng 19,77%, (tăng 850 tấn), tôm các loại đạt 5.091 tấn, tăng 28,92% (tăng 1.142 tấn) và thủy sản khác đạt 3.193 tấn, bằng 82,68%, (giảm 669 tấn).

Tính chung sản lượng 11 tháng ước đạt 132.445 tấn, đạt 86,39% kế hoạch, tăng 14,94% so cùng kỳ (tăng 17.217 tấn). Trong đó cá đạt 50.992 tấn, tăng 15,09%, (tăng 6.685 tấn), tôm đạt 37.652 tấn, tăng 2,69%, (tăng 985 tấn) và thủy sản khác đạt 43.801 tấn, tăng 27,87%, (tăng 9.547 tấn) so cùng kỳ năm 2012.

Sản lượng nuôi trồng tháng mười một tăng, trong đó tôm thẻ tăng 5,79% do  năm nay thu hoạch muộn trên diện tích thả nuôi nuôi công nghiệp và tôm lúa. Riêng sản lượng tôm sú giảm 3,87%, ảnh hưởng thời tiết không thuận lợi, phát sinh dịch bệnh nhiều, năng suất nuôi trồng giảm, lượng nuôi trồng thủy sản khác như sò, hến, cua ở vùng U Minh Thượng có chiều hướng tăng lên.

2. Công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11 tăng 6,37% so tháng trước và tăng 24,7% so cùng kỳ năm 2012. Chỉ số 11 tháng tăng 8,56% so cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành khai thác đá, cát sỏi tăng 28,12%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,73%: ngành sản xuất phân phối điện, hơi nước, nước nóng, điều hòa tăng 6,72% và ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải với mức tăng 6,79%.

Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh năm 2010) tháng 11 ước tính 3.471,3 tỷ đồng, tăng 5,17% so tháng trước và tăng 8,1% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng đạt 26.797,7 tỷ đồng, tăng 10,02% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được 25.478,1 tỷ đồng, tăng 10,19%; kế đến ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt đạt 855,6 tỷ đồng, tăng 4,31%; ngành khai thác đá, cát sỏi 351,8 tỷ đồng, tăng 9,34% và ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải đạt 112,1 tỷ đồng, tăng 19,84%.

Một số ngành công nghiệp sản xuất trong 11 tháng đạt mức khá so kế hoạch và tăng so cùng kỳ năm 2012 là: Xi măng địa phương 664,5 ngàn tấn, vượt 0,69% kế hoạch, tăng 16,59% so cùng kỳ; Cá đông 3.243 tấn, vượt 8,1% KH, tăng 31,62%; Clinker trên 1,9 triệu tấn, vượt 3,36% KH, tăng 55,34%; Điện máy phát 56,2 ngàn Kwh, đạt 97,03%, tăng 10%; tôm đông 3.894 tấn, đạt 86,53% KH, tăng 11,7%.

Bên cạnh đó còn một số ngành có mức sản xuất đạt thấp so kế hoạch và so cùng kỳ năm trước như: Xi măng trung ương 526,9 ngàn tấn, bằng 75,28% KH và tăng 0,31%; xi măng VĐT nước ngoài 1,7 triệu tấn, bằng 83,36% KH, giảm 7,16%; mực đông 10,6 ngàn tấn, bằng 73,47% KH, giảm 3,5%; bột cá 42,4 ngàn tấn, bằng 68,47% KH; đường các loại 7,3 ngàn tấn, bằng 77,79% KH, giảm 5,98%.

3. Vốn đầu tư

Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trong tháng 11 ước thực hiện được 336,9 tỷ đồng, so tháng trước tăng 3,42% và so cùng kỳ năm trước tăng 7,31%. Lũy kế 11 tháng được 3.658,5 tỷ đồng, đạt 85,57% kế hoạch năm và tăng 42,76% so cùng kỳ năm 2012. Trong đó: Vốn cân đối ngân sách địa phương 1.145,4 tỷ đồng, đạt 89,58% kế hoạch năm và tăng 34,57% so cùng kỳ; vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương 673,4 tỷ đồng, đạt 92,03% kế hoạch và tăng 26,06%; vốn trái phiếu Chính phủ 1.021,8 tỷ đồng, đạt 94,67% kế hoạch, tăng 77,55%; vốn ODA 60,6 tỷ đồng, đạt 93,34% kế hoạch năm và giảm 18,34% so cùng kỳ năm 2012.

4. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh 11 tháng sơ bộ được 4.498,2 tỷ đồng, đạt 95,18% dự toán thu cả năm và tăng 19,54% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số khoản thu đạt dự toán khá như: Thu phí, lệ phí 49,67 tỷ đồng, đạt 112,88%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 201,3 tỷ đồng, đạt 103,27%; thu từ doanh nghiệp Nhà nước trung ương 199,4 tỷ đồng, đạt 99,7%; thuế bảo vệ môi trường 159,3 tỷ đồng, đạt 99,56%; thu tiền sử dụng đất 735,78 tỷ đồng, đạt 93,73%; thuế XN khẩu, TTĐB, VAT hàng nhập khẩu 56,9 tỷ đồng, đạt 93,27%. Một số khoản thu đạt dự toán thấp hơn mức đạt chung như: thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước 21,82 tỷ đồng, bằng 60,62% dự toán; thuế thu nhập cá nhân 290,29 tỷ đồng, bằng 69,95%; thu từ doanh nghiệp Nhà nước địa phương 170,3 tỷ đồng, bằng 89,64% dự toán năm.      

Tổng chi ngân sách địa phương 11 tháng ước tính 7.395,2 tỷ đồng, bằng 89% dự toán năm và tăng 9,5% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi thường xuyên 4.699,6 tỷ đồng, vượt 0,92% dự toán và tăng 5,4%; chi đầu tư phát triển 1.361,1 tỷ đồng, bằng 68,05% dự toán và tăng 1,06% so cùng kỳ năm 2012.

     5. Thương mại - dịch vụ

a. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ phục vụ tiêu dùng:

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 11 ước tính đạt 4.287,9 tỷ đồng, tăng 3,15% so tháng trước và tăng 14,29% so cùng kỳ năm 2012.

Tính chung 11 tháng đạt 43.152,9 tỷ đồng, bằng 88,05% kế hoạch năm và tăng 16,91% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố biến động giá thì tăng 10,2%. Trong đó, kinh tế ngoài Nhà nước đạt 41.950,6 tỷ đồng, chiếm 97,21% trong tổng mức và tăng 17,89 %; kinh tế Nhà nước đạt 1.202,2 tỷ đồng, chiếm 2,79% tổng mức và giảm 9,19%.

Phân theo ngành kinh tế, kinh doanh thương nghiệp đạt 35.528,1 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 82,33% trong tổng mức và tăng 12,44%; khách sạn, nhà hàng đạt 5.925 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,73% và tăng 37,82%; dịch vụ, du lịch lữ hành đạt 1.699,8 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,94% và tăng 67,73% so cùng kỳ năm trước.

 Trong tháng 10 Chi Cục Quản lý Thị trường tạm ngưng kiểm tra để tiếp tục xử lý các vụ việc vi phạm từ tháng trước. Qua 10 tháng đã kiểm tra 1.094 vụ việc, đã phát hiện 349 vụ vi phạm, gồm 110 vụ vi phạm hàng cấm, hàng nhập lậu; 38 vụ gian lận thương mại; 31 vụ hàng giả, hàng kém chất lượng; 11 vụ vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm và 159 vụ vi phạm khác trong kinh doanh. Đã xử lý và thu nộp ngân sách Nhà nước 5,36 tỷ đồng.

b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu: Ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của tỉnh trong tháng 11 đạt gần 41,4 triệu USD, giảm 12,15% so tháng trước và giảm 8,03% so cùng kỳ năm 2012.Trong đó: hàng nông sản 19,3 triệu USD, giảm 15,32% so tháng trước; hàng thủy sản 19,8 triệu USD, giảm 9,79% so tháng trước.

Tính chung 11 tháng kim ngạch xuất khẩu đạt 582 triệu USD, bằng 88,19% kế hoạch và tăng 6,81% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: hàng nông sản đạt 355,9 triệu USD, bằng 79,98% kế hoạch, giảm 10,7%; hàng thủy sản đạt 148,6 triệu USD, bằng 80,33% kế hoạch, tăng 15,61% so cùng kỳ và hàng hóa khác 77,5 triệu USD, tăng 4,3 lần so cùng kỳ năm 2012 (chủ yếu xuất các mặt hàng như mì gói, nước rửa chén, bột giặt, bánh kẹo… qua đường tiểu ngạch Cửa khẩu Hà Tiên).

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 11 tháng qua đạt khá so với kế hoạch và so với cùng kỳ năm 2012 như: Tôm đông xuất 4,5 ngàn tấn, vượt kế hoạch 51,17% và tăng 86,17%; cá đông 2 ngàn tấn, đạt 80% kế hoạch và tăng 74,83%.

Tuy nhiên có một số mặt hàng xuất đạt thấp so kế hoạch năm và cùng kỳ năm trước như: gạo xuất 874,3 ngàn tấn, đạt 87,43% kế hoạch và giảm 6,16% so cùng kỳ năm trước; mực đông và tuộc đông xuất đạt 9,5 ngàn tấn, bằng 67,95% kế hoạch và giảm 11,56%; cá cơm sấy 330 tấn, đạt 66% KH, giảm 2,08%; nước mắm 40 ngàn lít, bằng 16% KH và giảm 63,96% so cùng kỳ.

Dự kiến trong tháng 11 lượng gạo xuất chỉ đạt 43,4 ngàn tấn, giảm 12,9 ngàn tấn so tháng trước, với 7 doanh nghiệp xuất khẩu gạo của tỉnh xuất đạt như sau: Cty thương mại du lịch xuất 8.503 tấn, Cty kinh doanh nông sản xuất 4.500 tấn, Cty Thuận Phát xuất 3.500 tấn, Cty xuất nhập khẩu Kiên Giang xuất 5.000 tấn, Cty Kiên An Phú xuất 7.644 tấn, Cty nông lâm sản 11.850 tấn, và Cty dịch vụ thương mại xuất 1.190 tấn.

Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo của tỉnh trong năm nay gặp nhiều khó khăn về giá xuất và lượng xuất đến nay giảm hơn cùng kỳ năm trước 57,4 ngàn tấn.

Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu tháng 11 ước tính đạt 3 triệu USD, tăng 1,35% so tháng trước.

Tính chung 11 tháng ước tính giá trị hàng hóa nhập khẩu đạt 31,7 triệu USD, bằng 90,63% kế họach và tăng 15,61% so với cùng kỳ năm trước.

Mặt hàng nhập là những nguyên liệu dùng cho sản xuất như: giấy kratp 2,2 ngàn tấn, tăng 2,3 lần so cùng kỳ ; hạt nhựa trên 1,5 ngàn tấn, tăng 29,94%. Riêng mặt hàng thạch cao nhập 77 ngàn tấn, giảm 19,69% so cùng kỳ năm trước.

c. Chỉ số giá

Trong tháng giá các nhóm hàng tiếp tục ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 (tính từ 15/10 đến 15/11) tăng 0,41% so tháng trước. Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng cao nhất 1,35% (do giá gas điều chỉnh từ đầu tháng tăng 20.000đ-25.000đ/bình 12kg); kế đến là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,5%, trong đó hàng lương thực tăng 1,32% (do giá gạo ngon tăng từ 500-1.000đ/kg); hàng thực phẩm tăng 0,19%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,32%; nhóm đồ uống thuốc lá tăng 0,2%; nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,2%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,19%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%; nhóm giáo dục với 0,03%; Chỉ một nhóm giao thông giảm 0,11% (do từ ngày 12/11 điều chỉnh giá xăng giảm 250đ/lít)

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 so với tháng 12 năm 2012 (sau 11 tháng) tăng 4,39%, trong đó hàng thực phẩm tăng cao nhất 8,99%. So với cùng kỳ năm 2012 (sau 1 năm) tăng 4,88%, trong đó tăng cao nhất là nhóm hàng hóa và dịch vụ khác 7,1%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 6,47%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,12%...

          Giá vàng trong tháng biến động giảm theo giá vàng thế giới, chỉ số giá vàng tháng 11 giảm 0,21% so với tháng trước, giảm 21,75% so với tháng 12/2012 và giảm 21,72% so với cùng kỳ năm trước. Giá bán ra bình quân 3.363.000đ/chỉ.

       Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11 giảm 0,16% so với tháng trước; tăng 1,13% so với tháng 12/2012; tăng 1,13% so với cùng kỳ năm năm. Thời điểm 15/11/2013 giá bán tại Ngân hàng Ngoại thương là 21.120 đồng/USD, thị trường tự do bán 21.220 đồng/USD.

d. Du lịch

Tháng 11 sau Lễ hội Cụ Nguyễn nên lượt khách du lịch đến tỉnh có giảm hơn, ước tính số khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch đạt 83,1 ngàn lượt khách, giảm 18,5% so tháng trước và giảm 2,73% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách du lịch theo tour 6,9 ngàn lượt khách, tăng 2,59% so tháng trước và tăng 23,44% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng số lượt khách du lịch ước tính đạt gần 3,4 triệu lượt khách, đạt 82,65% kế hoạch năm và giảm 1,47% so với cùng kỳ. Khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch gần 1,1 triệu lượt khách, đạt 97,01% kế hoạch năm và tăng 12,18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó khách du lịch theo tour 93,2 ngàn lượt khách, đạt 70,61% kế hoạch năm và tăng 2,11% so cùng kỳ. Riêng khách quốc tế đi  Phú Quốc 11 tháng qua đạt gần 82,1 ngàn lượt khách, giảm 8,92% so cùng kỳ năm 2012.

đ. Vận tải:

Tình hình vận tải hành khách và hàng hóa trong tháng này khá hơn tháng trước, do thời tiết chuyển mùa ít mưa, thuận lợi cho hoạt động kinh doanh chua73n bị dịp Lễ, Tết sắp đến .

          Vận tải hàng khách: Tháng 11 ước tính đạt 4,6 triệu lượt người, tăng 2,52% so tháng trước, tăng 2,02% so cùng kỳ; luân chuyển 236 triệu lượt người.km, tăng 3,11% so tháng trước và tăng 2,4% so với cùng kỳ.

          Lũy kế 11 tháng khách vận chuyển được gần 49,2  triệu lượt người, vượt 1,76% kế hoạch và tăng 3,75% so cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải hành khách đường bộ đạt 39,5 triệu lượt khách, tăng 3,49%; đường sông đạt 8,2 triệu lượt khách, tăng 3,61%; đường biển 1,4 triệu lượt khách, tăng 12,29% so cùng kỳ năm trước.

          Vận tải hàng hóa: Ước tính tháng 11 đạt 653 ngàn tấn, tăng 3% so tháng trước luân chuyển 89,1 ngàn tấn.km, tăng 3,6% so tháng trước.

Lũy kế 11 tháng vận tải hàng hóa được 7,3 triệu tấn, vượt 5,68 % kế hoạch và tăng 11,48% so cùng kỳ, trong đó vận tải đường bộ đạt 2,2 triệu tấn, tăng 12,12%; đường sông đạt trên 3 triệu tấn, tăng 10,32%; đường biển trên 2,1 triệu tấn, tăng 12,53% so cùng kỳ năm 2012.

 

6. Một số tình hình xã hội:

  Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

Trong tháng (tính từ ngày 01/10/2013 đến 31/10/2013) toàn tỉnh có 103 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng so với tháng trước (giảm 29,5%), số mắc tập trung nhiều ở TP. Rạch Giá (31 trường hợp), Hòn Đất (29 trường hợp), các địa phương khác đều có số ca mắc giảm so tháng trước. Tính từ đầu năm đến ngày 31/10/2013 tổng số mắc là 1.068 trường hợp, giảm 1.095 trường hợp (giảm 50,07%) so với cùng kỳ năm 2012 (2.163 trường hợp), chưa ghi nhận có trường hợp tử vong; Sốt xuất huyết mắc 74 trường hợp, tăng 07 trường hợp (tăng 15 %)  so với tháng trước. Tổng số mắc SXH là 807 trường hợp, giảm 2.318 trường hợp (74,2%) so với cùng kỳ năm 2012, các địa phương có số mắc cao trong tháng là huyện Phú Quốc (19 trường hợp), Vĩnh Thuận (17 trường hợp), các địa phương khác đều có số ca mắc giảm so tháng trước, từ đầu năm đến nay chưa có trường hợp nào tử vong; Các bệnh truyền nhiễm đều giảm hơn tháng trước, duy nhất chỉ có bệnh tiêu chảy thường tăng hơn tháng trước 40 trường hợp, trong tháng bệnh do vi rút Adeno (bệnh đau mắt đỏ) đã được kiểm soát số ca mắc là 2.078 trường hợp, giảm 865 trường hợp so với tháng 09/2013; Không ghi nhận trường hợp tiêu chảy cấp nguy hiểm cũng như cúm A(H1N1), A(H5N1), A(H7N7) nào trên địa bàn toàn tỉnh; Trong tháng phát hiện mới 28 người nhiễm HIV, chuyển sang AIDS 22 trường hợp, tử vong 08 trường hợp. Cộng dồn từ đầu năm đến nay (tháng 10/2013) toàn tỉnh phát hiện mới 246 người nhiễm HIV (trong đó: trong tỉnh 240; ngoài tỉnh 06), chuyển AIDS 101 trường hợp (trong tỉnh 101 trường hợp), tử vong 40 trường hợp.

Trong tháng xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm với 15 người mắc tại ấp So Đũa, xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành do sử dụng thịt heo quay nhiễm vi sinh cao. Tại Bệnh viện đa khoa Kiên Giang không có trường hợp nào bị ngộ độc thực phẩm nhập viện điều trị.

Tai nạn giao thông: Theo Ban an toàn giao thông tỉnh Kiên giang, từ ngày 01/10/2013 đến 30/10/2013, trên toàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ TNGT, làm chết 11 người và bị thương 5 người. So với tháng trước tăng 1 vụ, số người chết tăng 2 người và bị thương giảm 2 người. So tháng 10 năm 2012 tai nạn giao thông không tăng giảm vụ, số người chết tăng 3 người, bị thương giảm 1 người.

Tính từ đầu năm đến ngày 15/11/2013 xảy ra 110 vụ TNGT, làm chết 89 người và bị thương 75 người; so cùng kỳ năm 2012, giảm 7 vụ (giảm 5,98%), số người chết giảm 6 người (giảm 6,32%), số người bị thương tăng 10 người (tăng 15,38%).

Thiên tai, hỏa hoạn: Vào đêm 6/11/2013 cơn mưa giông lớn đã làm sập 3 căn nhà ở xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, đêm ngày 18/11 lốc xoáy làm sập 2 căn ở xã Hòa Hưng; ước tổng thiệt hại do giông, lốc là 53 triệu đồng.

Theo số liệu thống kê bộ phận phòng cháy chửa cháy tỉnh, tính từ ngày 16/10 đến ngày 15/11, trên toàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy, 1 vụ do thay thế gas bị xì gây cháy và 2 vụ do chập điện; làm 1 người chết ở huyện An Biên và 7 người bị thương. Ước thiệt hại 135 triệu đồng./.

Tải về : - Số liệu KTXH tháng 11 và 11 tháng năm 2013

              - CPI tháng 11 năm 2013

 

Số lần đọc: 1653
Cục Thống Kê Kiên Giang
Tin liên quan