Tin nóng
25.11.2021

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a. Nông nghiệp

Vụ Hè thu (kể cả Xuân hè): kết thúc gieo trồng vụ Hè thu, toàn tỉnh gieo trồng được 281.802 ha, vượt 0,64% kế hoạch (vượt 1.802 ha) và giảm 0,52% (giảm 1.482 ha) so với diện tích lúa Hè thu năm trước, diện tích giảm chủ yếu ở 3 huyện Hòn Đất 500 ha, An Biên 575 ha, U Minh thượng 273 ha. Đã thu hoạch dứt điểm được 281.790 ha (mất trắng 12 ha)[1], năng suất đạt 5,61 tấn/ha, sản lượng đạt 1.580.950 tấn (giảm 7.847 tấn) so với vụ Hè thu năm trước.

Vụ Thu đông (vụ 3): kết thúc gieo trồng lúa vụ Thu đông, toàn tỉnh gieo trồng được 91.096 ha, vượt 24,79% kế hoạch[2], tăng 1,07% so với diện tích lúa thu đông năm trước (tăng 964 ha). Đến nay đã thu hoạch 88.661 ha, ước tính năng suất trên trà lúa đã thu hoạch đạt 5,45 tấn/ha.

Cây rau màu: một số loại cây màu đã gieo trồng như: dưa hấu 1.238 ha, tăng 20,19% so với cùng kỳ năm trước; khoai lang 1.430 ha, tăng 4,92% so cùng kỳ; khoai mì 368 ha, tăng 1,94% so cùng kỳ; bắp 267 ha, tăng 4,71% so cùng kỳ; rau, đậu các loại khác 9.845 ha, tăng 4,80% so cùng kỳ năm trước.

Chăn nuôi

Ngành chăn nuôi đang đứng trước rất nhiều khó khăn, không những xuất hiện dịch bệnh mà việc tiêu thụ cũng khó khăn do sức mua của thị trường giảm mạnh; mặt khác thức ăn chăn nuôi liên tục tăng, giá heo hơi giảm dẫn đến hiệu quả chăn nuôi rất thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tái đàn, mở rộng quy mô chăn nuôi. Để khôi phục và phát triển chăn nuôi, ngành nông nghiệp đang tập trung chỉ đạo, triển khai nhanh mô hình chăn nuôi an toàn sinh học trên các đối tượng vật nuôi, nhất là đối với chăn nuôi heo.

Kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/10/2021 từng loại vật nuôi và so với cùng kỳ năm trước như sau: đàn trâu có 4.520 con, tăng 1,69% so với cùng kỳ (tăng 75 con); đàn bò 10.025 con, giảm 13,22% (giảm 1.527 con); đàn heo 195.255 con, giảm 2,49%; đàn gia cầm 3.535,88 ngàn con, giảm 7,60%, trong đó đàn vịt: 1.219 ngàn con, giảm 21,61%.

b. Lâm nghiệp

Các ngành chức năng thường xuyên phối hợp với các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao kiến thức về phòng chống cháy rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, duy trì thường xuyên công tác chăm sóc, bảo vệ rừng, chống chặt phá rừng nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại. Thực hiện Kế hoạch khoanh nuôi, chăm sóc rừng trong năm, đến nay đã có 6.520 ha rừng được chăm sóc, giảm 16,62% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 400 ha, giảm 20% so cùng kỳ và diện tích rừng được khoán bảo vệ là 9.783 ha, tăng 4,30% so cùng kỳ.

Trong tháng không xảy ra vụ phá rừng nào. Tính chung 11 tháng đã xảy ra 47 vụ phá rừng, diện tích bị thiệt hại 12,46 ha và 08 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị thiệt hại 12,09 ha.

c. Thủy sản

Giá trị sản xuất thủy sản (giá so sánh 2010): tháng 11 ước tính đạt 2.647,63 tỷ đồng, bằng với tháng trước, nhưng tăng 15,63% so cùng kỳ[3] năm trước. Tính chung 11 tháng, ước tính đạt 30.011,24 tỷ đồng, đạt 90,63% kế hoạch năm, tăng 2,78% so cùng kỳ[4] năm trước.

Sản lượng thủy sản (cả khai thác và nuôi trồng): tháng 11 ước tính đạt 73.887 tấn, giảm 2,55% so với tháng trước và tăng 12,91% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng ước tính 781.534 tấn, đạt 97,81% kế hoạch năm, tăng 1,14% so cùng kỳ. Chia ra:

Sản lượng khai thác: tháng 11 ước đạt 46.592 tấn, giảm 0,63% so tháng trước, tăng 0,77% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng ước tính 523.137 tấn, đạt 102,58% kế hoạch năm, giảm 0,62% so cùng kỳ[5].

Sản lượng nuôi trồng: tháng 11 ước tính đạt 27.295 tấn, giảm 5,67% so với tháng trước, tăng 42,13% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng giảm so với tháng trước chủ yếu là do giảm sản lượng tôm các loại và thủy sản khác. Tính chung 11 tháng, ước tính sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch 258.397 tấn, đạt 89,41% kế hoạch năm, tăng 4,89% (tăng 12.051 tấn) so cùng kỳ năm trước[6].

2. Công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP): tháng 11 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 13,28% so tháng trước, giảm 1,05% so cùng tháng năm trước. So với tháng trước ngành chế biến, chế tạo tăng 14,47%[7]; ngành khai khoáng tăng 9,46%. Tính chung 11 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành giảm 4,01% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 1,73%; ngành chế biến, chế tạo giảm 4,79%[8].

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): tháng 11 ước tính đạt 4.687,19 tỷ đồng, tăng 13,93% so với tháng trước, tăng 3,57% so với cùng tháng năm trước[9]. Tính chung 11 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính 42.010,85 tỷ đồng, đạt 77,21% kế hoạch năm, tăng 0,39% so với cùng kỳ.[10]

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 11 tháng tăng so cùng kỳ như: giày da đạt 76,40% kế hoạch năm, tăng 39,12%; gạch không nung đạt 87,05% kế hoạch năm, tăng 9,69%; điện thương phẩm đạt 82,68% kế hoạch năm, tăng 8,41%; gỗ MDF đạt 98,57% kế hoạch năm, tăng 4,84%; sản xuất nước mắm đạt 91,18% kế hoạch năm, tăng 3,92%; nước máy đạt 82,71% kế hoạch năm, tăng 1,34%; … Nhưng cũng có một số sản phẩm giảm so cùng kỳ như: bao bì PP đạt 39,55% kế hoạch năm, giảm 29,65%; bột cá đạt 58,17% kế hoạch năm, giảm 21,29%; mực đông lạnh đạt 71,15% kế hoạch năm, giảm 18,16%; bia các loại đạt 67,21% kế hoạch năm, giảm 15,29%; cá đông đạt 76,59% kế hoạch năm, giảm 13,31%; xi măng đạt 82,76% kế hoạch năm, giảm 10,69%; nước đá giảm 8,91%... Nguyên nhân là do ảnh hưởng chung tình hình dịch bệnh Covid – 19 làm cho một số doanh nghiệp phải ngưng hoạt động, giảm năng lực sản xuất do thiếu lao động, không đảm bảo điều kiện “3 tại chỗ” để sản xuất trong thời gian thực hiện giãn cách, sản phẩm sản xuất tiêu thụ chậm.

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tính tháng 11 bằng 86,92% cùng kỳ năm trước; trong đó, sản xuất chế biến thực phẩm bằng 80,23%; sản xuất đồ uống bằng 82,04%; sản xuất trang phục bằng 147,54%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ bằng 68,04%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng 60,55%...

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tính tháng 11 bằng 53,12% cùng kỳ năm trước; trong đó, sản xuất đồ uống bằng 20,71%; sản xuất xi măng, vôi bằng 102,71%; sản xuất chế biến thực phẩm bằng 150,75%; sản xuất trang phục bằng 450,87%...

Chỉ số sử dụng lao động của ngành công nghiệp tháng 11 tăng 4,70% so với tháng trước, giảm 15,29% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng giảm 6,15% so với cùng kỳ năm trước.

3. Vốn đầu tư thực hiện (Vốn ngân sách nhà nước)

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 11 (Số giải ngân đến 15/11/2021) ước tính 379,74 tỷ đồng, bằng 74,19% so với tháng trước, tăng 13,38% so cùng tháng năm trước. Trong đó: vốn cân đối ngân sách địa phương 289,62 tỷ đồng, tăng 11,76% so tháng trước, tăng 10,80% so cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước ước tính 2.180,07 tỷ đồng, mới đạt 46,74% kế hoạch năm và chỉ bằng 61,90% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn cân đối ngân sách địa phương 1.605,66 tỷ đồng, đạt 40,52% kế hoạch năm, bằng 83,85% cùng kỳ năm trước; vốn xổ số kiến thiết 789,81 tỷ đồng, đạt 49,06% kế hoạch, tăng 8,21% so với cùng kỳ.

4. Thu, chi ngân sách nhà nước

Tổng thu ngân sách nhà nước tháng 11 ước tính thu được 812,50 tỷ đồng, giảm 27,18% so với tháng trước, bằng 94,29% so cùng tháng năm trước. Trong đó thu nội địa 800 tỷ đồng, giảm 27,85% so với tháng trước, bằng 92,94% so cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng, tổng thu ngân sách ước đạt 9.241,42 tỷ đồng, đạt 79,94% dự toán năm, giảm 15,85% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa 9.172,69 tỷ đồng, chiếm 99,26% tổng thu, đạt 80,39% dự toán năm, giảm 14,85% so cùng kỳ. So với cùng kỳ năm trước, chỉ có 4 khoản thu tăng cao[11], song vẫn còn một số khoản thu đạt thấp như: thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước mới bằng 59,34% cùng kỳ, đạt 64,53% dự toán; thu tiền sử dụng đất bằng 39,25% cùng kỳ, đạt 42,88% dự toán; thu thuế bảo vệ môi trường bằng 64,16% cùng kỳ, đạt 50,00% dự toán…

Tổng chi ngân sách địa phương tháng 11 ước tính 1.377,66 tỷ đồng, tăng 38,96% so với tháng trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển 384,77 tỷ đồng, tăng 22,73% so tháng trước, tăng 5,08% so cùng tháng năm trước; chi thường xuyên 992,89 tỷ đồng, tăng 46,47% so tháng trước. Tính chung 11 tháng, tổng chi ngân sách địa phương ước tính 10.179,04 tỷ đồng, bằng 65,83% dự toán năm, giảm 17,29% so cùng kỳ[12].

5. Ngân hàng

Trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, hoạt động ngân hàng trên địa bàn tiếp tục tập trung thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, tạo điều kiện phục hồi sản xuất kinh doanh; tăng trưởng tín dụng phù hợp tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh. Ước tính đến 30/11/2021, một số chỉ tiêu đạt cụ thể như sau:

Tổng nguồn vốn hoạt động ước đạt 114.800 tỷ đồng, tăng 0,80% so tháng trước, tăng 9,22% so với đầu năm. Trong đó, vốn huy động tại địa phương ước đạt 58.700 tỷ đồng (chiếm 51,13% tổng nguồn vốn hoạt động), tăng 0,32% so tháng trước, tăng 6,51% so với đầu năm.

Doanh số cho vay trong tháng ước đạt 13.500 tỷ đồng; dư nợ cho vay ước đạt 95.000 tỷ đồng, tăng 0,97% so tháng trước, tăng 8% so với đầu năm.

Nợ xấu nội bảng ước tính 1.350 tỷ đồng, chiếm 1,42% tổng dư nợ.

Nợ tổn thất (nợ đã xử lý bằng dự phòng rủi ro và đang theo dõi ngoại bảng) ước tính 1.200 tỷ đồng.

Hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng trên địa bàn khá ổn định. Tỷ giá vàng và ngoại tệ diễn biến theo xu hướng chung của cả nước và thế giới.

Hệ thống ngân hàng trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các giải pháp của chính sách tiền tệ; tập trung các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho tổ chức, cá nhân vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, hạn hán, xâm nhập mặn ... như cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi, triển khai các chương trình, sản phẩm tín dụng ưu đãi lãi suất thấp hơn lãi suất thông thường nhằm khôi phục, ổn định sản xuất kinh doanh

6. Thương mại - dịch vụ và giá cả

Tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh trong tháng vẫn còn diễn biến phức tạp. Để thực hiện mục tiêu vừa chống dịch vừa phát triển sản xuất kinh doanh, các cơ sở chủ động ứng phó và thực hiện các các biện pháp để thích ứng và kinh doanh an toàn trong điều kiện bình thường mới. Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn trong tháng 11 tăng khá. Doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác tăng lên so với tháng trước; dịch vụ du lịch lữ hành trong tháng có chuyển biến tốt sau thời gian bị ảnh hưởng nặng nề, nay đã phát sinh doanh thu.

a. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 ước đạt 8.985,95 tỷ đồng, tăng 15,84% so tháng trước, nhưng vẫn giảm 8,14% so cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng, ước đạt 94.669,47 tỷ đồng, đạt 76,27% kế hoạch năm, giảm 2,08% so với cùng kỳ. Chia theo ngành hoạt động:

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 11 ước đạt 6.554,10 tỷ đồng, tăng 12,14% so với tháng trước, giảm 10,97% so cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng, ước đạt 73.216,32 tỷ đồng, đạt 79,05% kế hoạch năm, giảm 2,49% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 11 ước tính 1.204,90 tỷ đồng, tăng 49,12% so tháng trước, giảm 1,14% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng, ước đạt 10.410,58 tỷ đồng, đạt 61,97% kế hoạch năm, giảm 5,35% so cùng kỳ năm trước.

Doanh thu du lịch lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch tháng 11 ước đạt 12,50 tỷ đồng, giảm 30,77% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng ước đạt 166,55 tỷ đồng, đạt 66,62% kế hoạch năm, giảm 17,59% so cùng kỳ.

Doanh thu hoạt động dịch vụ khác tháng 11 ước đạt 1.214,45 tỷ đồng, tăng 9,97% so với tháng trước, tăng 2,66% so cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng ước tính 10.876,02 tỷ đồng, đạt 75,27% kế hoạch năm, tăng 4,65% so cùng kỳ năm trước.

b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11 ước đạt 70,50 triệu USD, tăng 3,94% so với tháng trước và tăng 59,57% so cùng tháng năm trước[13]. Tính chung 11 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính 659,15 triệu USD, đạt 87,89% kế hoạch năm, tăng 5,20% so với cùng kỳ. Trong đó, hàng nông sản 226,39 triệu USD, tăng 6,42% so cùng kỳ; hàng hải sản 226,31 triệu USD, tăng 8,59% so cùng kỳ. Một số mặt hàng xuất chủ yếu như: gạo 424.274 tấn, đạt 88,39% kế hoạch năm, tăng 0,16% so cùng kỳ; tôm đông 4.459 tấn, đạt 99,09% kế hoạch, so với cùng kỳ tăng 17,34%; mực, bạch tuộc đông 12.550 tấn, đạt 100,40% kế hoạch, so với cùng kỳ tăng 16,92% ...

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11 ước đạt 8,78 triệu USD, tăng 7,60% so tháng trước và giảm 4,88% so tháng cùng kỳ. Tính chung 11 tháng ước tính đạt 118,82 triệu USD, đạt 118,82% kế hoạch năm, giảm 0,31% so với cùng kỳ. Các mặt hàng nhập khẩu, chủ yếu vẫn là nguyên liệu dùng cho sản xuất.

c. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Mười Một tăng 0,12% so với tháng trước. Trong đó: khu vực thành thị tăng 0,15%, khu vực nông thôn giảm 0,11%. CPI tháng 11 tăng nhẹ so với tháng trước, có 8/11 nhóm tăng, trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất với mức tăng 3,15%; kế đến là nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,15%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,11%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,07%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,06%; nhóm giáo dục, nhóm thiết bị và đồ dung gia đình tăng 0,02%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,01%. Có 02 nhóm giảm đó là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,54% (trong đó thực phẩm giảm 1,13%) và nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,11%. Còn lại các nhóm khác tương đối bình ổn giá.

So với tháng 12 năm trước (sau 11 tháng) chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,31%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, duy nhất chỉ có nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,42% và cũng chỉ có nhóm Bưu chính viễn thông là bình ổn (bằng 100%), còn lại tất cả các nhóm khác đều tăng giá. Trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất 17,59%; kế đến là nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 5,66%; nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 4,67%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,83% (lương thực tăng 2,71%, thực phẩm tăng 0,24%, ăn uống ngoài gia đình tăng 6,12%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,25%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,23%; giáo dục tăng 0,77%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,58%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,57%.

Bình quân 11 tháng chỉ số giá đã tăng 2,74% so với cùng năm trước.

Chỉ số giá vàng: tháng Mười Một so với tháng trước tăng 102.000 đồng/chỉ (tăng 2,01%) và giảm 3,18% so với tháng 12 năm trước, giảm 3,62% so với cùng tháng năm trước. Giá vàng nhẫn bình quân tháng 11 là 5.172.000 đồng/chỉ.

Chỉ số giá đô la Mỹ: tháng Mười Một giảm 0,24% so với tháng trước, giảm 1,99% so với cùng tháng năm trước và giảm 1,95% so với tháng 12 năm trước. Giá USD bình quân tháng 11 tại liên ngân hàng là 2.280.600 đồng/100 USD, giảm 5.500 đồng/100 USD so với tháng trước.

d. Vận tải

Vận tải hành khách: tháng 11 hoạt động vận tải nội tỉnh đã hoạt động trở lại nên vận chuyển hành khách đang từng bước được hồi phục. Ước tính vận chuyển hành khách trong tháng 11 đạt 1,46 triệu lượt khách, tăng 22,63% so tháng trước, nhưng chỉ bằng 19,86% so với cùng tháng năm trước; luân chuyển 98,31 triệu HK.km, tăng 22,73% so tháng trước, chỉ bằng 20,36% so cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng, vận chuyển hành khách ước đạt hơn 53 triệu lượt khách, đạt 53,79% kế hoạch năm, giảm 33,78% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 3.523,81 triệu HK.km, đạt 54,30% kế hoạch năm, giảm 32,89% so cùng kỳ. Trong đó, vận chuyển hành khách đường bộ giảm 33,93%, vận chuyển hành khách đường biển giảm 22,98% so cùng kỳ.

Vận tải hàng hóa: tháng 11, hàng hóa vận chuyển ước tính 1,14 triệu tấn, tăng 11,90% so tháng trước, giảm 4,37% so cùng tháng năm trước; luân chuyển 163,18 triệu tấn.km, tăng 11,87% so tháng trước, giảm 3,78% so cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng, vận chuyển hàng hóa ước tính 12,18 triệu tấn, đạt 86,94% kế hoạch năm, giảm 5,60% so cùng kỳ. Trong đó, vận chuyển hàng hóa đường bộ giảm 4,68%, vận tải hàng hóa đường biển giảm 2,16%; luân chuyển 1.744,67 triệu tấn.km, đạt 88,09% kế hoạch năm, giảm 5,16% so với cùng kỳ.

e. Du lịch

Tháng 11 ảnh hưởng của dịch Covid-19 còn khá nặng nề, hầu hết các cơ sở lưu trú, các điểm du lịch vẫn chưa hoạt động bình thường trở lại. Du lịch trên địa bàn tỉnh sụt giảm mạnh do ảnh hưởng chung của đại dịch, từ đó để phấn đấu phát triển du lịch cần phải tìm các giải pháp nhằm kích cầu du lịch trở lại, từng bước phục hồi và lấy lại đà phát triển du lịch của tỉnh trong tình hình dịch bệnh được kiểm soát. Kế hoạch phục hồi và phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh phấn đấu đạt các chỉ tiêu đến mức cao nhất có thể, theo đó trong tháng 11 tỉnh đã bắt đầu đón khách du lịch quốc tế (ngày 20/11/2021 đón 200 khách du lịch Hàn Quốc) đến thành phố Phú Quốc sử dụng “hộ chiếu vắc-xin”, đảm bảo công tác phòng, chống dịch Covid – 19 và an toàn cho du khách.

Ước tính khách du lịch trong tháng 11 đạt 317 ngàn lượt khách, bằng 12,68 lần lượng khách của tháng trước. Tính chung 11 tháng, tổng lượt khách du lịch trên địa bàn tỉnh là 2.666,25 ngàn lượt khách, đạt 38,09% kế hoạch năm, chỉ bằng 58,13% so cùng kỳ năm trước. Trong đó lượt khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch là 1.271,93 ngàn lượt khách, đạt 37,41% kế hoạch năm, giảm 36,12% so cùng kỳ năm trước. Trong đó khách quốc tế 1,40 ngàn lượt khách, mới đạt 0,35% kế hoạch năm và chỉ bằng 0,83% cùng kỳ năm trước.

8. Một số tình hình xã hội

a. Lao động, giải quyết việc làm, đào tạo nghề

Trong tháng 11 công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm của tỉnh vẫn thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch Covid – 19; trong tháng tỉnh phân bố vắc xin thực hiện tiêm chủng cho học sinh, sinh viên các trường cao đẳng, trung cấp trên địa bàn. Tính chung 11 tháng giải quyết việc làm được 26.629 lượt người, đạt 76,08% kế hoạch năm, giảm 19,99% so cùng kỳ năm trước; trong đó lao động làm việc ở nước ngoài 102 người, bằng 69,86% cùng kỳ năm trước.

Đào tạo nghề cho 19.121 lượt người, đạt 77,63% so cùng kỳ. Tổng số người lao động nước ngoài được cấp phép trong tháng là 08 người, tính từ đầu năm đến nay là 95 người. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tăng cường công tác tuyển sinh bằng nhiều hình thức phù hợp với tình hình phòng, chống dịch Covid-19.

b. Giáo dục

Do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ngành giáo dục đã chủ động và nghiêm túc thực hiện các chủ trương của Tỉnh ủy và UBND trong phòng chống dịch; tiếp tục chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục năm học 2021 – 2022 ứng phó với dịch Covid – 19. Triển khai tiêm vắc xin ngừa Covid-19 cho học sinh theo sự chỉ đạo chung, đảm bảo sự an toàn trong môi trường học tập cho học sinh: tính đến ngày 12/11/2021, học sinh các khối lớp 10, 11 và 12 trong toàn tỉnh đã được thực hiện tiêm ngừa phòng, chống dịch  bệnh Covid-19; trong đó 67 đơn vị trường học trên địa bàn với 43.294 học sinh và đã tiêm ngừa cho 41.274 học sinh, đạt tỷ lệ 95,33%; còn lại 2.020 học sinh chưa tiêm ngừa là các trường hợp các em là f0 đã khỏi bệnh, các em có bệnh nền…Học sinh cấp THCS, tiểu học và mầm non sẽ thực hiện tiêm vắc xin trong 02 tuần cuối tháng 11 năm 2021.

        Tập trung vận động quyên góp, ủng hộ thiết bị học tập trực tuyến cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn theo sự chỉ đạo chung của Chương trình “Sóng và máy tính cho em”, với tổng số tiền hơn 3,5 tỷ đồng, 100 điện thoại và 20.000 sim.

        Kiểm tra việc thực hiện dạy học trực tuyến và dạy học trên truyền hình ở cấp tiểu học; kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ năm học ở một số đơn vị khi học sinh đến trường. Tổ chức kỳ thi chọn đội tuyển học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2021-2022. Hiện tại có 290/614 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 47,23%.

c. Tình hình y tế

Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp; chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện sàng lọc, chủ động tăng cường các biện pháp ứng phó, thực hiện tốt công tác phân luồng, sàng lọc người bệnh, các đối tượng có nguy cơ đến/trở về từ các khu vực có dịch, ổ dịch. Chỉ đạo hướng dẫn phòng, chống dịch Covid-19 tại nơi làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu công nghiệp...Tiếp tục điều tra, truy vết, cách ly những trường hợp nhập cảnh trái phép và trở về từ vùng dịch; kiểm tra Bộ tiêu chí phòng chống dịch Covid-19 và các dịch bệnh viêm đường hô hấp tại các bệnh viện, trung tâm y tế huyện, thành phố, phòng khám và trạm y tế.

Tình hình dịch bệnh:

- Tình hình dịch Covid-19: từ khi xuất hiện dịch trên địa bàn đến ngày 20/11/2021, toàn tỉnh ghi nhận 16.920 trường hợp mắc Covid-19 (trong đó có 107 ca nhập cảnh và 16.814 ca nhiễm trong tỉnh), đã điều trị khỏi 12.241 trường hợp, 168 trường hợp tử vong, 4.511 trường hợp đang điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong tỉnh.

Hiện tại đang cách ly tập trung 6.578 trường hợp; cách ly tại nhà, nơi lưu trú 9.951 trường hợp. Tổng số trường hợp được lấy mẫu xét nghiệm Covid-19 là 298.818 trường hợp, trong đó số trường hợp có kết quả dương tính 16.920 trường hợp. Tình hình tiêm vắc xin phòng Covid – 19: tổng số mũi tiêm 1.844.815; trong đó: tiêm mũi 01 là 1.163.941 chiếm 97,39%, mũi 02 là 749.425 chiếm 62,71%.

- Bệnh sốt xuất huyết trong tháng ghi nhận 37 cas, trong đó có 09 cas sốt xuất huyết nặng (huyện An Biên 08 cas, huyện Tân Hiệp 01 cas), giảm 04 cas so với tháng trước. Tính chung từ đầu năm đến nay số cas mắc là 724 cas, không có trường hợp tử vong.

- Bệnh tay chân miệng có 03 cas mắc, tăng 01 cas mắc so với tháng trước. Tính chung từ đầu năm đến nay số cas mắc là 990 cas.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: thực hiện thanh, kiểm tra 178 cơ sở, trong đó có 155 cơ sở đảm bảo VSATTP theo quy định (87,07%) và 23 cơ sở chưa đảm bảo VSATTP (12,93%), đã xử lý nhắc nhở và hướng dẫn cơ sở thực hiện việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong tháng không ghi nhận trường hợp ngộ độc thực phẩm nào.

d. Hoạt động Văn hóa, Thể dục thể thao

- Hoạt động Văn hóa:

Trong tháng, tập trung tuyên truyền các hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị; nhất là tuyên truyền kỷ niệm hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (09/11), kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), kỷ niệm Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11), hưởng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới, Ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ (25/11), hưởng ứng Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2021... Bảo tàng tỉnh mở cửa phục vụ khách tham quan và áp dụng các biện pháp thích ứng an toàn theo từng cấp độ dịch Covid-19 đối với các hoạt động văn hóa, gia đình và thể thao trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Thư viện tỉnh Kiên Giang phối hợp với WWF - Việt Nam xây dựng và triển khai mô hình cơ quan giảm thiểu rác thải nhựa.

- Hoạt động Thể dục thể thao:

Thể dục thể thao quần chúng: tạm hoãn tổ chức các giải thể dục, thể thao trên địa bàn tỉnh, thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch Covid-19. Xây dựng kế hoạch tập luyện thể dục thể thao nâng cao sức khỏe phòng chống dịch Covid – 19. Điều chỉnh kế hoạch tổ chức đại hội thể dục, thể thao các cấp tỉnh Kiên Giang lần thứ IX năm 2021-2022.

Thể thao thành tích cao: đội tuyển cờ vua tham dự giải vô địch trẻ cờ vua quốc gia năm 2021, từ ngày 18/11 - 28/11/2021, thi đấu trực tuyến.

e. Tình hình an toàn giao thông

Tính từ ngày 15/10/2021 đến 14/11/2021, toàn tỉnh xảy ra 7 vụ tai nạn giao thông, làm 5 người chết, 4 người bị thương. So với tháng trước số vụ tai nạn giao thông giảm 01 vụ, giảm 5 người chết. Tính chung 11 tháng (từ 15/12/2020 đến 14/11/2021) toàn tỉnh xảy ra 99 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 86 vụ, đường thủy 13 vụ), làm 71 người chết, 53 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, giảm 10 vụ (giảm 9,17%), tăng 6 người chết (tăng 9,23%) và giảm 16 người bị thương (giảm 23,19%).

Tình hình tai nạn giao thông trong tháng 11 giảm hơn so với tháng trước và tính chung từ đầu năm đến nay đã giảm 02 trên 03 tiêu chí so với cùng kỳ (cụ thể giảm số vụ và giảm số người bị thương) chỉ tăng trên 01 tiêu chí so với cùng kỳ năm trước (tăng số người chết). Các ngành chức năng cần thường xuyên tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát và tuyên truyền, vận động nhân dân gương mẫu chấp hành Luật giao thông khi tham gia giao thông, để mọi người dân nâng cao ý thức khi tham gia giao thông nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông trên địa bàn trong thời gian tới.

f. Tình hình cháy, nổ và thiên tai

Tình hình cháy nổ: từ ngày 15/10/2021 đến 14/11/2021 toàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ. Tính chung từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ cháy, 01 vụ nổ, làm bị thương 01 người và chết 01 người. Thiệt hại về vật chất ước tính lũy kế trên 5,3 tỷ đồng.

Tình hình thiên tai: từ ngày 15/10/2021 đến 14/11/2021 trên địa bàn tỉnh có xảy ra mưa lớn kèm theo lốc đã làm sập 04 căn nhà (huyện An Biên 02 căn, Tân Hiệp 02 căn), tốc mái 03 căn nhà (huyện An Biên 02 căn, Kiên Hải 01 căn), chìm 01 tàu cá và hư hỏng 03 chiếc bè nuôi thủy sản trên địa bàn huyện Kiên Hải. Ước giá trị thiệt hại về vật chất là 260 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh do ảnh hưởng tình hình thời tiết, thiên tai đã làm sập hoàn toàn 136 căn nhà, tốc mái 225 căn nhà, làm bị thương 18 người, chết 02 người, chìm 6 tàu đánh bắt thủy sản, hư hỏng 03 chiếc bè nuôi thủy sản. Thiệt hại về vật chất ước tính hơn 11,96 tỷ đồng./.

Tải về: - Số liệu Kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2021 của tỉnh Kiên Giang;

             - Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2021 của tỉnh Kiên Giang


[1] Nguyên nhân do nắng nóng kéo dài, lúa bị chết, nông dân không xạ lại.

[2] Diện tích gieo trồng ở các huyện như Tân Hiệp 32.273 ha, Giồng Riềng 28.056 ha, Giang Thành 15.514 ha, Châu Thành 7.842 ha, Hòn Đất 5.890 ha, Rạch Giá 790 ha, Gò Quao 731 ha.

[3] Chia ra: Giá trị khai thác giảm 0,56% so tháng trước, tăng 0,72% so cùng kỳ; giá trị nuôi trồng tăng 0,52% so tháng trước, tăng 33,41% so cùng kỳ.

[4] Chia ra: Giá trị khai thác đạt 105,22% kế hoạch năm, giảm 0,10% so cùng kỳ; nuôi trồng đạt 80,84% kế hoạch, tăng 5,44%.

[5] Trong đó cá các loại giảm 0,71% (giảm 2.820 tấn); tôm các loại giảm 1,01% (giảm 306 tấn); mực giảm 0,78% (giảm 514 tấn).

[6] Trong đó cá nuôi tăng 0,55% (tăng 432 tấn) so với cùng kỳ và đạt 86,47% kế hoạch năm; tôm các loại tăng 11,52% (tăng 10.106 tấn) so với cùng kỳ và đạt 99,85% kế hoạch năm.

[7] Trong đó: ngành chế biến thực phẩm tăng 9,12%; ngành sản xuất đồ uống tăng 12,50%...

[8] Trong đó: ngành sản xuất đồ uống giảm 5,85%, ngành chế biến thực phẩm giảm 4,51%...

[9] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 95,03%/ trong tổng số, tăng 3,36%.

[10] Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 94,50%/ trong tổng số, tăng 0,13%.

[11] Thu từ doang nghiệp NN TW, đạt 84,39% dự toán năm, tăng 3,08% so cùng kỳ; Thu từ doang nghiệp NN ĐP đạt 89,91% dự toán năm, tăng 2,30%; thu phí, lệ phí đạt 87,09% dự toán, tăng 9,42%; thu khác đạt 200,82% dự toán năm, tăng 112,38%.

[12] Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 45,68% dự toán năm, giảm 36,87% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 80,00% dự toán và giảm 8,67% so với cùng kỳ.

[13] So với tháng trước, giá trị hàng nông sản tăng 14,77%; hàng thủy hải sản tăng 4,23%; nguyên liệu giày da tăng 0,22%.

 

Số lần đọc: 853
Cục thống kê Kiên Giang
Tin liên quan