Tin nóng
29.04.2014

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a. Nông nghiệp

  - Vụ đông xuân: Diện tích gieo trồng được 305.877 ha, vượt 1,62% so kế hoạch năm (tăng 4.877 ha) và so với vụ đông xuân năm trước tăng 5.271 ha (tăng 1,75%). Diện tích gieo trồng tăng do đất vườn tạp, đất trồng rừng kém hiệu quả chuyển sang sản xuất lúa, các huyện có diện tích gieo trồng tăng như: Giồng Riềng tăng 2.107 ha; Kiên Lương tăng 1.090 ha; Giang Thành tăng 696 ha; Gò Quao tăng 775 ha; Vĩnh Thuận tăng 424ha...

Tính đến ngày 15 tháng 4, diện tích thu hoạch vụ đông xuân được 285.500 ha, bằng 93,33% trên diện tích gieo sạ. Năng suất thu hoạch ước tính đạt 70,65 tạ/ha, tăng gần 1,58 tạ/ha so vụ đông xuân năm trước. Nguyên nhân năng suất vụ năm nay tăng do thời tiết thuận lợi, diện tích nhiễm sâu bệnh ít hơn so vụ đông xuân trước, nông dân quan tâm khâu chăm sóc đồng ruộng, chọn giống lúa phù hợp cho năng suất cao...

Trong vụ đông xuân huyện có sản lượng thu hoạch nhiều nhất là Hòn Đất khoảng trên 550.000 tấn, Giồng Riềng trên 350.000 tấn, Tân Hiệp trên 290.000 tấn... Hiện giá lúa thu mua ở các huyện tăng, giảm khác nhau theo nhu cầu của các doanh nghiệp, huyện Hòn Đất giá lúa tươi bán tại ruộng thấp hơn tháng trước từ 200-400đ/kg đối với lúa IR 50404 từ 4.100đ- 4.200đ/kg, lúa OM2517 từ 4.400-4.600đ/kg, lúa Jasmine85 từ 4.700-4.800đ/kg; huyện Giồng Riềng giá lúa không tăng, IR 5040 giá 4.100-4.300 đồng/kg; lúa thơm Jasmine85 giá 4.900-5.000 đồng/kg; huyện Tân Hiệp tăng 200 đồng/kg, lúa IR 5040 giá 4500đ/kg,  Jasmine85 giá 4.900đ/kg...

Theo Hiệp hội Lương thực VN, tỉnh ta được giao chỉ tiêu thu mua 84.000 tấn quy gạo (tương đương 168.000 tấn lúa), chiếm khoảng 7% sản lượng lúa vụ đông xuân, do đó chính sách thu mua tạm trử gạo không ảnh hưởng nhiều đến giá lúa. Dự báo trong thời gian tới giá lúa có thể nhích lên do nước ta đã trúng thầu 800 nghìn tấn gạo cho Philippines trong năm nay, đồng thời thuận lợi xuất sang thị trường lớn Trung Quốc.

 - Vụ xuân hè: Sau khi thu hoạch xong lúa đông xuân sớm, nông dân huyện Gò Quao tranh thủ gieo sạ được 2.956 ha vụ xuân hè, so cùng kỳ năm trước diện tích vụ này giảm 5.671 ha. Năm nay đa số các địa phương gieo trồng và thu hoạch vụ đông xuân muộn hơn, hiện nông dân đang cày ải, phơi đất, để chuẩn bị xuống giống vụ hè thu chính vụ.

-  Vụ hè thu: Toàn tỉnh gieo sạ được 69.125 ha, trong đó huyện có diện tích gieo sạ nhiều nhất là Giồng Riềng 45.700 ha; Tân Hiệp trên 20.000 ha... đây là hai huyện thu hoạch vụ đông xuân sớm nhất, các huyện còn lại đang tranh thủ làm đất, chuẩn bị xuống giống vụ hè thu cho kịp lịch thời vụ tránh tác hại do dịch bệnh và lũ cuối vụ.

Diện tích gieo sạ vụ hè thu năm nay chậm chỉ bằng 63,74% so cùng kỳ năm trước. Dự báo diện tích gieo trồng vụ lúa hè thu năm nay sẽ tương đương với diện tích Đông xuân (tăng từ 2-3% so với cùng kỳ).

Hiện nay trên diện tích gieo sạ vụ hè thu bị nhiễm sâu bệnh khoảng 350 ha, tăng 45,22% so cùng kỳ năm trước. Các ngành chức năng ở địa phương cần quan tâm đến tình hình lây lan dịch bệnh cho vụ hè thu năm nay, khi diện tích gieo sạ còn thấp mà diện tích nhiễm sâu bệnh lại tăng cao hơn cùng kỳ năm trước.

-  Cây rau màu: Kết quả gieo trồng cây màu của vụ đông xuân đạt được như sau: khoai lang 597 ha, giảm 12,85% so cùng kỳ; khoai mì 258 ha, giảm 19,37%; mía 5.126 ha, tăng 7,31%; dưa hấu 805 ha, giảm 18,02%; rau đậu các loại 4.200 ha, giảm 3,4% ...

 - Chăn nuôi: Trong tháng công tác phòng chống dịch cúm gia cầm được các ngành các cấp phối hợp chặt chẽ, tích cực kiểm tra, tiêm phòng đàn gia súc nên tình hình dịch bệnh trên toàn tỉnh cũng như cả nước đã khống chế không phát sinh ổ dịch mới nào. Tuy nhiên, thời tiết giao mùa cần đề phòng ổ dịch có thể nội phát tại các địa phương hay xảy ra dịch như huyện Giồng Riềng, Hòn Đất.., đặc biệt là có biện pháp kiểm tra nghiêm ngặt việc lưu thông động vật nuôi qua các địa phương, các tỉnh.

Số lượng đàn gia súc, gia cầm không có biến động nhiều so với thời điểm đầu năm. Ước tính số lượng đàn trâu có đến thời điểm này là 7.645 con, tăng 4,34% so cùng kỳ, đàn bò ước 11.890 con tăng 3,88 % so cùng kỳ. Nguyên nhân đàn trâu, bò tăng hơn cùng kỳ do cầu tiêu dùng nhằm cung cấp nguồn thực phẩm ở cuối năm có khả năng tăng lên trong khi đàn gia cầm chưa thể tăng nhanh do tâm lý người chăn nuôi.

b. Lâm nghiệp: Trong tháng 4 trên địa bàn tỉnh đã có mưa một vài nơi, nhưng chưa đều khắp, thời tiết vẫn còn nắng nóng, giông gió chuyển mùa, lượng nước dự trữ giảm nhiều, các ngành chức năng cần duy trì công tác tuần ra, kiểm soát, phòng chống cháy rừng, giảm số vụ chặt phá rừng nhằm bảo vệ diện tích rừng hiện có.

Tính từ đầu năm đến nay ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung được 50 ha; sản lượng gỗ khai thác 17.112 ha, tăng 2,16% so cùng kỳ; xảy ra 17 vụ phá rừng, tăng 6,25% so cùng kỳ, với diện tích 0,18ha, bằng 60,59% so cùng kỳ năm trước.

3. Thủy sản:

Giá trị sản xuất thủy sản (theo giá so sánh 2010) trong tháng 4 ước tính đạt 1.394,8 tỷ đồng, tăng 1,95% so với tháng trước và tăng 8,45% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: giá trị khai thác 999,2 tỷ đồng, tăng 1,04% so tháng trước và tăng 4,95% so cùng kỳ và giá trị nuôi trồng 395,6 tỷ đồng, tăng 4,3% so tháng trước và tăng 18,4% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng giá trị sản xuất khai thác và nuôi trồng được 5.327,6 tỷ đồng, đạt 26,01% kế hoạch năm và tăng 6,83% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: giá trị khai thác 3.797,3 tỷ đồng, đạt 33,37% so kế hoạch, tăng 5,8% so cùng kỳ và giá trị nuôi trồng 1.530,3 tỷ đồng, đạt 16,82% kế hoạch, tăng 9,49% so cùng kỳ năm 2013.

Sản lượng khai thác: Tháng 4 ước tính được 38.955 tấn thủy hải sản các loại, tăng 1,9% so tháng trước và tăng 5,3% so cùng kỳ năm trước, trong đó: cá các loại 26.607 tấn, tăng 2,14% so tháng trước và tăng 7,03% so cùng kỳ (tăng 1.748 tấn); tôm các loại 3.525 tấn, tăng 0,71% so tháng trước và giảm 2,06% so cùng kỳ (giảm 74 tấn). Tính chung 4 tháng,  sản lượng khai thác ước tính 151.698 tấn, đạt 34,09% kế hoạch năm và tăng 11,02% so cùng kỳ năm trước, trong đó: cá các loại 103.488 tấn, đạt 34,73% kế hoạch và tăng 15,22% (tăng 13.667 tấn); tôm các loại 13.126 tấn, đạt 32,01% kế hoạch và giảm 8,18% (giảm 1.169 tấn)

Sản lượng nuôi trồng: Tháng 4 ước đạt 9.870 tấn thủy sản các loại, giảm 4,03% so tháng trước và tăng 39,64% so cùng kỳ năm trước, trong đó: cá nuôi các loại đạt 3.852 tấn, giảm 8,22% so tháng trước và tăng 0,39% so cùng kỳ năm trước; tôm các loại đạt 1.663 tấn, tăng 15,89% so tháng trước và tăng 3,23% so cùng kỳ. Trong đó: tôm thẻ chân trắng đạt 620 tấn, giảm 14,95% (giảm 109 tấn) so tháng trước, giảm 23,55% so cùng kỳ (giảm 191 tấn); thủy sản khác 4.355 tấn, tăng 2,68 lần so cùng kỳ (trong đó: sò các loại 3.380 tấn, tăng  gấp 6 lần, hến 762 tấn, tăng 13,73%...). Tính chung 4 tháng, sản lượng nuôi trồng ước tính 39.824 tấn, đạt 23,73% kế hoạch năm và tăng 14,43% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: cá nuôi các loại 17.842 tấn, đạt 31,45% kế hoạch năm và tăng 2,65%; tôm nuôi được 6.032 tấn, đạt 11,6% kế hoạch và tăng 6,97% (tăng 393 tấn), bao gồm: tôm sú 3.374 tấn, tăng 15,91% so cùng kỳ năm trước (tăng 463 tấn) và tôm thẻ chân trắng 2.658 tấn, đạt 11,66% kế hoạch và giảm 2,57% so cùng kỳ năm trước (giảm 70 tấn) ; thủy sản khác 15.950 tấn, đạt 26,98% kế hoạch năm, tăng 35,39% so cùng kỳ năm trước.

Tình hình khai thác thủy sản trong tháng 4 vẫn ổn định, các sản phẩm đều  tăng hơn tháng trước, nhưng do nguồn hải sản ngày một cạn sản lượng có giá trị tăng không đáng kể. Về nuôi trồng, cá nuôi giảm đi rất nhiều do chi phí thức ăn cao, sản phẩm chủ yếu tiêu dùng nội địa, nguồn nước ô nhiễm gây dịch bệnh; ngoài ra lượng tôm thẻ chân trắng cũng giảm do tình hình xuất khẩu gặp khó khăn, các doanh nghiệp vùng Tứ giác Long Xuyên thả nuôi cầm chừng, là nguyên nhân giá trị nuôi trồng thủy sản 4 tháng qua đạt thấp hơn giá trị khai thác và thấp so kế hoạch năm.

Tính đến ngày 8/4/2014, diện tích tôm thả nuôi được 85.607 ha, (gồm 84.620 ha nuôi tôm sú và 987 ha tôm thẻ) đạt 96,18% kế hoạch tỉnh giao, tăng 4.472 ha so củng kỳ năm trước, diện tích nuôi công nghiệp được 795 ha. Các địa phương có diện tích thả nuôi tôm như sau: Huyện An Minh cao nhất được 41.705 ha; Vĩnh Thuận 20.000 ha; An Biên 9.640 ha; U Minh Thượng 5.165 ha; Gò Quao 3.080 ha; Kiên Lương 3.870 ha; Giang Thành 2.380 ha; Hà Tiên 1.850 ha, Hòn Đất 1.220 ha. Trong tháng do thời tiết nắng nóng, xuất hiện mưa đầu mùa làm thay đổi môi trường nước, đã xảy ra dịch bệnh trên tôm (kể cả tôm công nghiệp), có 1.562 ha diện tích tôm bị thiệt hại vì bệnh đốm trắng và gan tụy phải thu hoạch sớm. Những địa phương có diện tích nuôi bị thiệt hại là: An Minh 1.477 ha, Kiên Lương 30 ha, An Biên 19,5 ha, Vĩnh Thuận 30 ha, U Minh Thượng 5,4 ha. Mặc dù diện tích tôm nuôi thiệt hại thấp hơn cùng kỳ năm trước (năm 2013: 15.359 ha), các ngành chức năng cần theo dõi để phát hiện sớm,  hướng dẫn nông dân cách phòng trừ dịch bệnh đạt hiệu quả, tránh lây lan diện rộng nhằm duy trì được diện tích tôm nuôi và  sản lượng cao trong năm 2014.

2. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp: Trong tháng 4 toàn ngành ước tính tăng 3,21% so tháng trước và tăng 18,09% so cùng kỳ năm trước. Các ngành có chỉ số sản xuất tăng khá so tháng trước và tăng hơn mức chung như: sản xuất xi măng tăng 5,96%; sản xuất nước đá tăng 7,44% và ngành khai thác đá tăng 6,17%.

Tính chung 4 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 10,44% so cùng kỳ năm trước, trong đó một trong những ngành chủ lực của tỉnh là chế biến, bảo quản thủy sản các doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh tìm được nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ khá ổn định nâng chỉ số sản xuất tăng cao nhất 30,29%; kế đến là ngành khai thác đá các đơn vị đẩy mạnh khai thác để đáp ứng nhu cầu xây dựng trong tỉnh trong mùa khô nâng chỉ số sản xuất ngành khai thác tăng 25,72%; các ngành còn lại tăng dưới mức tăng chung của toàn ngành, trong đó có ngành sản xuất xi măng chỉ tăng 7,92%...

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): Tháng 4 ước tính đạt 2.580,1 tỷ đồng, tăng 12,25% so tháng trước và tăng 10,83% so với cùng kỳ năm 2013, bao gồm: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2.464 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 95,5%, tăng 12,71% so tháng trước và tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt,nước nóng và hơi nước đạt 75 tỷ đồng, tăng 1,08% so tháng trước và tăng 7,52% so với cùng kỳ; ngành khai thác đá đạt 29,6 tỷ đồng, tăng 6,14% so tháng trước và tăng 4,27% so với cùng kỳ và ngành cung cấp nước, quản lý xử lý rác, nước thải đạt 11,3 tỷ đồng, tăng 10,45% so tháng trước tăng 26,95% so cùng kỳ năm trước.

Tính chung 4 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp ước tính 9.026,9 tỷ đồng, đạt 27,66% kế hoạch và tăng 8,11% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 8.583,1 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 95,05% tăng 8,17%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt,nước nóng và hơi nước 279,7 tỷ đồng, tăng 8,87%; ngành khai thác đá đạt 120,1 tỷ đồng, tăng 1,22%,và ngành cung cấp nước, quản lý xử lý rác, nước thải đạt 43,8 tỷ đồng, tăng 11,75% so cùng kỳ năm trước.

          Các sản phẩm sản xuất trong tháng 4 tăng khá cao so tháng trước như: Xi măng VĐT nước ngoài đạt 178 ngàn tấn, tăng 17,58%; tôm đông lạnh 270 tấn, tăng 29,19%; cá đông lạnh 200 tấn, tăng 11,59%; bột cá 4 ngàn tấn, tăng 25%; đóng mới tàu 27 chiếc, tăng 12,5%. Các sản phẩm trong 4 tháng sản xuất tăng cao so kế hoạch và so cùng kỳ như: xi măng trung ương 244 ngàn tấn, đạt 35,92% kế hoạch, tăng 57,55% so cùng kỳ; cá hộp 3,37 ngàn tấn, đạt 33,7% kế hoạch, tăng 19,97%; mực đông lạnh 4,08 ngàn tấn, đạt 32,64% kế hoạch, tăng 37,37%... Bên cạnh đó còn một số sản phẩm trong 4 tháng mức sản xuất đạt thấp so kế hoạch và giảm so cùng kỳ năm 2013 như: tôm đông lạnh đạt 15,02% kế hoạch và giảm 15,75% (do Công ty cổ phần thủy sản Bim tạm ngưng hoạt động); cá đông lạnh đạt 13,56% kế hoạch và giảm 36,75%; Xi măng VĐT nước ngoài đạt 27,2% kế hoạch và giảm 4,81%; bao bì PP đạt 29,5% kế hoạch và giảm 6,31% so cùng kỳ năm trước.

3. Đầu tư

Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý chủ yếu tập trung vào các công trình trọng điểm, thiết yếu mang lại hiệu quả trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh như: đầu tư nâng cấp quốc lộ, các trục đường giao thông chính, giao thông nông thôn; bảo dưỡng sửa chữa hệ thống cầu đường tuyến huyện; công trình điện, nước, xử lý rác; đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Thạnh Lộc, khu CN Thuận Yên; bến tàu trên đảo Phú Quốc; nâng cấp công trình thủy lợi; nâng cấp nạo vét kênh, đê, bờ bao…

Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 4 ước tính thực hiện được 320,2 tỷ đồng, bằng 99,87% so tháng trước và tăng 3,39% so cùng kỳ năm trước, trong đó vốn cân đối ngân sách địa phương  99,61 tỷ đồng, tăng 0,76% so tháng trước; vốn trung ương hỗ trợ đầu tư có mục tiêu 57,95 tỷ đồng, bằng 97,87% so tháng trước; vốn trái phiếu Chính phủ 86 tỷ đồng, bằng 96,43% so tháng trước .

 Luỹ kế 4 tháng thực hiện 1.263,14 tỷ đồng, bằng 32,22% dự toán năm và tăng 6,41% so cùng kỳ năm trước, trong đó vốn cân đối ngân sách địa phương  391,5 tỷ đồng, tăng 6,59% so cùng kỳ; vốn trung ương hỗ trợ đầu tư có mục tiêu 229,9 tỷ đồng, tăng 5,03%; vốn trái phiếu Chính phủ 345,4 tỷ đồng, tăng  1,87% so cùng kỳ năm trước.

4. Thu, chi ngân sách

Tổng thu ngân sách trên địa bàn: Tháng 4 thực hiện thu ngân sách trên địa bàn ước tính  285,4 tỷ đồng, bằng 58,35% so tháng trước và giảm 7,35% so cùng kỳ năm 2013, trong đó thu nội địa 188,7 tỷ đồng, bằng 57,41% so tháng trước; thu từ các doanh nghiệp Nhà nước 24,5 tỷ đồng, bằng 46,66% so tháng trước; thu thuế CTN ngoài nhà nước 82,3 tỷ đồng, tăng 4,36%; thu từ doanh nghiệp có vốn ĐT nước ngoài 11,5 tỷ đồng, tăng 23,59% so tháng trước.

Tổng thu trong 4 tháng thực hiện được 1.746 tỷ đồng, bằng 35% dự toán năm và tăng 14,18% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa 1.038,9 tỷ đồng, bằng 29,68% dự toán năm; thu từ các doanh nghiệp Nhà nước 154,5 tỷ đồng, bằng 36,81%; thuế thu nhập cá nhân 102,8 tỷ đồng, bằng 38,09%; thu thuế CTN ngoài Nhà nước 343,8 tỷ đồng, bằng 27,09%; thu tiền sử dụng đất 176,6 tỷ đồng, bằng 22,08; thu từ DN có vốn ĐT nước ngoài 62,2 tỷ đồng, bằng 27,69%; Thuế bảo vệ môi trường 74,3 tỷ đồng, bằng 42,99% so dự toán năm …

Tổng chi ngân sách địa phương: Tháng 4 ước tính chi ngân sách địa phương trên 619,5 tỷ đồng, bằng 86,1% so tháng trước. Tổng chi ngân sách 4 tháng  2.554,5 tỷ đồng, bằng 28,5% dự toán và tăng 2,12% so cùng kỳ năm trước, trong đó, chi thường xuyên trên 1.770,9 tỷ đồng, bằng 33,86% dự toán năm và tăng 6,9%; chi đầu tư phát triển hơn 285,8 tỷ đồng, bằng 14,3% dự toán năm và bằng 94,88% so cùng kỳ năm trước.

5. Thương mại, giá cả và dịch vụ

a. Tổng mức bán lẻ hàng hóa:

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 4 ước đạt 4.214,7 tỷ đồng, tăng 1,98% so tháng trước, tăng 19,8% so cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa 4 tháng đạt 17.818,6 tỷ đồng, bằng 32,25% kế hoạch năm, tăng 16,39% so cùng kỳ (nếu loại trừ yếu tố giá thì tốc độ tăng khoảng 12,08%). Phân theo thành phần kinh tế:  khu vực kinh tế Nhà nước đạt 279,57 tỷ đồng, kinh tế tập thể đạt 20,38 tỷ đồng, kinh tế cá thể đạt 10.476,9 tỷ đồng và kinh tế tư nhân đạt 7.041,7 tỷ đồng.

b. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành: dự kiến tháng 4 ước đạt 823,6 tỷ đồng, tăng 4,24% so tháng trước, trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú: 46,8 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ ăn uống: 772,3 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch đạt: 4,4 tỷ đồng. Lũy kế 4 tháng đạt 3.327,4 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ lưu trú: 185,02 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ ăn uống: 3.125,04 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch đạt: 17,4 tỷ đồng.

Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường thực hiện thường xuyên, trong ba tháng đầu năm Chi Cục Quản lý Thị trường đã kiểm tra 324 vụ việc, qua đó phát hiện 108 vụ vi phạm, gồm 60 vụ buôn bán vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu; 05 vụ gian lận thương mại; 07 vụ vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng; 01 vụ vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm và 35 vụ vi phạm khác trong kinh doanh. Đã xử lý thu phạt hành chính và bán hàng tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 517,04 triệu đồng.

c. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 4 ước tính đạt 28,4 triệu USD, giảm 20,63% so với tháng trước và giảm 53,11% so cùng kỳ năm trước, trong đó: hàng nông sản 16,6 triệu USD, giảm 34,66% so tháng trước; hàng thủy sản 11 triệu USD, tăng 13,19% so tháng trước và hàng hóa khác 0,8 triệu USD, tăng 20,27% so tháng trước.

Tính chung 4 tháng kim ngạch xuất khẩu đạt 106,1 triệu USD, bằng 15,85% kế hoạch năm và giảm 44,97% so với cùng kỳ năm trước (giảm 86,7 triệu USD), trong đó: hàng nông sản đạt 64,5 triệu USD, bằng 14,66% kế hoạch năm và giảm 55,25% (giảm 79,6 triệu USD); hàng thủy sản đạt 39 triệu USD, bằng 22,33% kế hoạch năm và giảm 6,7%; hàng hóa khác đạt 2,5 triệu USD, bằng 45,33% kế hoạch năm và giảm 62,35% so với cùng kỳnăm trước.

Trong tháng 4, mặt hàng gạo các doanh nghiệp dự kiến chỉ xuất được 39 ngàn tấn, giảm 16 ngàn tấn so tháng trước; mặt hàng thủy sản trong tháng dự kiến lượng xuất tăng như: tôm đông lạnh tăng 12,61%; mực đông và tuộc đông tăng 17,52%; cá đông tăng 14,75%; thủy sản đông khác tăng 2,66% so tháng trước...

Tình hình xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm của tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, các mặt hàng chủ lực xuất khẩu đều giảm so cùng kỳ năm trước. Như mặt hàng gạo dự kiến xuất được 145,3 ngàn tấn, bằng 41,14% (giảm 207,9 ngàn tấn) so cùng kỳ năm 2013, tôm đông lạnh xuất 574 tấn, bằng 52,95% (giảm 510 tấn), mực và tuộc đông xuất 2.669 tấn, bằng 84,7% (giảm 482 tấn); cá đông 437 tấn, bằng 67,44% (giảm 211 tấn)…

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 4 ước tính đạt 2,2 triệu USD, tăng 5,58% so với tháng trước, giảm 16,64% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng trị giá nhập được 9,5 triệu USD, bằng 23,77% kế hoạch năm và giảm 8,24% so cùng kỳ. Các mặt hàng nhập khẩu gồm: giấy krapt 250 tấn, bằng 28,74% so cùng kỳ năm trước; hạt nhựa 712 tấn, bằng 77,14%; thạch cao 27,9 ngàn tấn, bằng 94,26% so cùng kỳ năm trước.

d. Chỉ số giá tiêu dùng

          Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng nhẹ 0,03% so với tháng trước, trong tháng có 2 nhóm hàng giảm là: nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 1,3% (do giá gas từ ngày 1/4 giảm 17.000-20.000 đ/bình) và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm nhẹ 0,29%; các nhóm còn lại tăng thấp như: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,23% (trong đó: mặt hàng lương thực giảm 0,79% (do giá gạo thường giảm 1,22%, gạo ngon giảm 0,6%, nếp giảm 1,87% so tháng trước); mặt hàng thực phẩm tăng 0,7% (do giá heo hơi tăng, thịt heo tăng 2.000đ/kg, một số rau củ, cam, quýt cuối mùa thu hoạch nên tăng giá); hàng ăn uống ngoài gia đình giảm 0,03%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,13%; nhóm may mặc, giày dép, mũ nón tăng 0,22%; nhóm giao thông tăng 0,22% (do giá xăng ngày 19/3 tăng 180đ/lít); nhóm thiết bị đồ dùng gia đình tăng 0,05%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; nhóm bưu chính viễn thông không tăng giảm; nhóm giáo dục tăng 0,06%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,13%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 so với tháng 12/2013 (sau 4 tháng) tăng 0,85%; so với cùng kỳ năm trước (sau một năm) chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,27%, trong đó tăng cao nhất là nhóm hàng hóa và dịch vụ khác 5,84%; kế đến nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,3% (trong đó: ăn uống ngoài gia đình tăng 5,77%; hàng thực phẩm tăng 5,42%)...

Chỉ số giá vàng: tháng 4 (tính đến 15/4/2014) so tháng trước giảm 1,1% (giảm 37.000đ/chỉ), bình quân giá bán trong tháng là 3.368.000đ/chỉ. Chỉ số giá vàng tháng 4 so với tháng 12/2013  tăng 4,2% và so với cùng kỳ (sau 1 năm) giảm 16,16%.

Chỉ số giá Đô la Mỹ:  tháng 4 tương đương so với tháng trước. Đến thời điểm điều tra ngày 15/4/2014 tại Ngân hàng Ngoại Thương bán ra là 21.120đ/USD, thị trường tự do bán 21.170 đ/USD. Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 4/2014 so với tháng 12/2013 (sau 4 tháng) giảm 0,19% và so với tháng 4/2013 (sau 12 tháng) tăng 1,28%.

đ. Du lịch: Tổng lượt khách du lịch trong tháng 4 ước tính đạt 275,2 ngàn lượt khách, bằng 87,8% so tháng trước, trong đó: khách đến các khu vui chơi, điểm du lịch 131,6 ngàn lượt người và khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch đạt 143,5 ngàn lượt khách. Khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch bằng 98,18% so tháng trước và tăng 17,4% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: khách đến các cơ sở lưu trú du lịch phục vụ ước tính 131,4 ngàn lượt khách, bằng 97,05% so tháng trước và khách du lịch theo tour đạt được 12,1 ngàn lượt khách, tăng 12,32% so tháng trước.

Trong 4 tháng đầu năm, tổng lượt khách đến các điểm vui chơi và cơ sở kinh doanh du lịch ước 1,3 triệu lượt khách, đạt 31,9% kế hoạch năm và bằng 94,36% so cùng kỳ năm trước; số khách đến các cơ sở kinh doanh du lịch là  529,8 ngàn lượt khách, đạt 40,76% kế hoạch và tăng 25,54% so cùng kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 87,3 ngàn lượt khách, đạt 47,24% kế hoạch, tăng 27,02% so cùng kỳ (trong đó: khách Quốc tế đến Phú Quốc đạt 63,7 ngàn lượt người tăng 39,76% so cùng kỳ). Khách đến cơ sở lưu trú du lịch phục vụ 490,2 ngàn lượt khách, tăng 25,83% và khách du lịch theo tour 39,7 ngàn lượt khách, tăng 22,09% so cùng kỳ năm trước. Những tháng đầu năm do Tết, Lễ được kết hợp nghỉ dài ngày, quảng bá du lịch đạt hiệu quả, nên số khách đến tỉnh tham quan du lịch tăng đáng kể, khách du lịch có chiều hướng đi theo tour đang tăng trở lại.

e. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hàng hóa và hành khách tháng tư đều tăng so tháng trước, do trong tháng có hai dịp lễ giỗ tổ Hùng Vương và lễ 30/4 được nghỉ dài ngày, thời tiết nắng nóng, điều kiện thuận lợi tổ chức các chuyến đi thăm viếng và tham quan du lịch.

Vận tải hành khách: Tháng 4 ước tính 5 triệu lượt khách, tăng 3,44% so tháng trước và tăng 16,79% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển  257,5 triệu HK.km, tăng 3,92% so tháng trước và tăng 16,04% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 4 tháng vận tải hành khách ước tính được 19,5 triệu lượt khách, đạt 33,97% kế hoạch và tăng 7,34% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 1.001,2 triệu HK.km, đạt 31,77% kế hoạch và tăng 7,08% so cùng kỳ. Trong đó: Vận tải hành khách đường bộ 15,6 triệu lượt khách, tăng 7,37% so cùng kỳ và luân chuyển 782,6 triệu lượt khách.km, tăng 7,75%; Vận tải hành khách đường sông 3,3 triệu lượt khách, đạt 34,69% kế hoạch và tăng 8,97% và luân chuyển 169,9 triệu lượt khách.km, tăng 10,26%; Vận tải hành khách đường biển 538 triệu lượt khách, giảm 2,54% và luân chuyển 48,5 triệu lượt khách.km, giảm 10,82% (nguyên nhân vận tải hành khách, hàng hóa đường biển giảm là do số lượng phương tiện vận tải hiện giảm hơn năm trước).

Vận tải hàng hóa: Trong tháng 4 ước tính được 730 ngàn tấn, tăng 3,99% so tháng trước và tăng 1,96% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 99 triệu tấn.km, tăng 4,37% so tháng trước và tăng 4,93% so cùng kỳ năm trước.

Tính chung trong 4 tháng vận tải hàng hóa ước tính 2,8 triệu tấn, đạt 33,26% kế hoạch và tăng 2,45% so cùng kỳ năm trước; luân chuyển 379,9 triệu tấn.km, đạt 33,03% kế hoạch và tăng 2,91% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải hàng hóa đường bộ được 883 ngàn tấn, tăng 6,9% và luân chuyển 123,3 triệu tấn.km, tăng 7,51%; Vận tải hàng hóa đường sông 1.153 ngàn tấn, tăng 4,16% và luân chuyển 143,4 triệu tấn.km, tăng 3,54%; Vận tải hàng hóa đường biển 768 ngàn tấn, giảm 4,48% và luân chuyển 113,1 triệu tấn.km, giảm 2,3% so cùng kỳ năm trước.

6. Một số vấn đề xã hội

a. Công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề: Trong tháng 4 năm 2014, Sở Lao động - TB & XH tỉnh đã giải quyết việc làm cho 3.419 lượt người. Trong đó: Trong tỉnh 1.750 lượt người, ngoài tỉnh 1.650 lượt người, xuất khẩu 19 người (Hàn Quốc: 14, Malaysia: 02, Nhật Bản: 03). Nâng tổng số lao động được giải quyết việc làm từ đầu năm đến nay lên 12.389 lượt người, trong tỉnh 6.050 lượt người, ngoài tỉnh 6.314 lượt người, xuất khẩu 25 người. Giải quyết trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp cho 442 người,  lũy kế đến nay được 1.175 người.

Các Trường, Trung tâm, Cơ sở dạy nghề tổ chức đào tạo nghề cho 1.352 người, trong đó trung cấp nghề 49 người; sơ cấp nghề 470 người và dạy nghề dưới 3 tháng cho 833 người, nâng số đào tạo từ đầu năm đến nay được 3.651 người (trung cấp nghề 49 người, sơ cấp nghề 1.905 người, dạy nghề dưới 03 tháng 1.697 người). Tổ chức huấn luyện tay nghề cho học sinh, sinh viên chuẩn bị tham gia Hội thi tay nghề HSSV toàn quốc tại Hà Nội.

 b. Hoạt động văn hóa, thể thao: Ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch, trong tháng đã tập trung tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 39 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4) và 128 năm ngày Quốc tế Lao động (1/5); đón tết Chôl-Chnăm-Thmây của đồng bào dân tộc Khmer năm 2014; Lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng huyện Tân Hiệp; chào mừng thành phố Rạch Giá được công nhận là thành phố loại II và chuẩn bị tổ chức Lễ kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5) và khai mạc Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Kiên Giang lần thứ VII; tham gia Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần thứ nhất tại tỉnh Bạc Liêu;

Đoàn nghệ thuật Khmer phục vụ nhân dân các huyện vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc Khmer nhân dịp tết Chôl-Chnăm-Thmây được 07 xuất, có 6.000 lượt người xem; trong đó có 01 cuộc họp mặt cán bộ, chức sắc, trí thức, gia đình chính sách, kiều bào dân tộc Khmer do Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ tổ chức tại thành phố Cần Thơ. Đoàn Cải lương Nhân dân Kiên Giang tham gia biểu diễn phục vụ Lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương tại huyện Tân Hiệp, có 1.000 lượt người xem; Trung tâm Văn hóa tỉnh xây dựng 03 chương trình văn nghệ phục vụ Lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương tại huyện Tân Hiệp; kỷ niệm 10 năm thành lập Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo; chào mừng thành phố Rạch Giá được công nhận là thành phố loại II. Phối hợp với Đoàn Nghệ thuật Quân khu 9 tổ chức chương trình nghệ thuật tổng hợp phục vụ kỷ niệm ngày 30/4, 1/5.

Nhân dịp Lễ kỷ niệm 30/4, 1/5, các huyện, thị, thành phố đã tổ chức được 24 giải thi đấu thể thao gồm: cờ tướng, đua ghe ngo, đua thuyền truyền thống, bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, kéo co, đẩy gậy, việt dã… có hơn 5.000 vận động viên tham gia, phục vụ trên 15.000 lượt người đến xem và cổ vũ.

Các đội tuyển tỉnh tiếp tục tập luyện thường xuyên để tham dự các giải khu vực, toàn quốc và quốc tế. Đội tuyển trẻ cử tạ tham dự giải cử tạ các lứa tuổi thanh thiếu niên toàn quốc năm 2014 tại TPHCM, đạt 05 HCĐ; đội tuyển quần vợt tham dự giải quần vợt vô địch đồng đội toàn quốc tại Thành phố Huế, đạt 01 HCĐ; đội tuyển cờ vua tham dự giải vô địch cờ vua nam, nữ Châu Á tại Sharjah UAE.

            c. Tình hình Y tế: Trong tháng ngành y tế đã tập trung chỉ đạo giám sát chặt chẽ diễn biến tình hình dịch, bệnh và chủ động triển khai các biện pháp phòng chống không để dịch lớn xảy ra, đặc biệt là các bệnh sởi, cúm A(H5N1), (H7N9) và các bệnh truyền nhiễm lưu hành tại địa phương như sốt xuất huyết, bệnh tay chân miệng..

            Bệnh sốt xuất huyết: Trong tháng toàn tỉnh có 55 cas mắc sốt xuất huyết, tăng 29 cas  so với tháng trước. Trong đó SXHD có dấu hiệu cảnh báo 52 cas, sốt xuất huyết nặng 03 cas. Các địa phương có số mắc cao trong tháng là TP. Rạch Giá 26 cas tăng 23 ca và huyện Hòn Đất 08 cas, một số địa phương khác có số ca mắc giảm so tháng trước, nâng tổng số ca mắc sốt xuất huyết 4 tháng đầu năm nay là 123 cas, giảm 56 cas so cùng kỳ, toàn tỉnh chưa có trường hợp nào tử vong.

            Bệnh Tay Chân Miệng: Trong tháng, toàn tỉnh có 126 cas, tăng 59 cas so với tháng trước, số mắc trong tháng tập trung nhiều ở huyện Giồng Riềng 27 cas, TP. Rạch Giá 21 cas, Hòn Đất 15 cas, các địa phương khác đều có số ca mắc rải rác. Nâng tổng số ca mắc bệnh Tay chân miệng 4 tháng đầu năm 2014 là: 349 cas, giảm 30 cas so cùng kỳ năm trước.

            Các bệnh truyền nhiễm khác: Tình hình các bệnh truyền nhiễm trong tháng tăng cao hơn tháng trước, tuy nhiên không ghi nhận cas tử vong. Cụ thể như: Bệnh sởi năm nay diễn biến phức tạp, ngành Y tế rất quan tâm khi số trẻ mắc và tử vong cao trên cả nước, riêng đối với tỉnh ta trong tháng toàn tỉnh đã phát hiện 126 cas sởi tăng 100% so cùng kỳ năm 2013; Bệnh tiêu chảy mắc 735 cas, tăng 99 cas so với tháng trước; Bệnh Thương hàn và Phó Thương hàn mắc trong tháng là 02 cas, giảm 11 ca; Bệnh Lỵ trực trùng mắc trong tháng là 29 cas, tăng 04 cas; Bệnh Lỵ Amip mắc trong tháng là 20 cas, giảm 05 cas; Bệnh Thủy đậu mắc trong tháng 88 cas, giảm 02 cas; Bệnh Quai bị mắc trong tháng là 19 cas, tăng 09 ca; Bệnh Cúm thường mắc trong tháng là 379 cas, tăng 35 cas; Bệnh Đau mắt đỏ (Bệnh do Adenovirus) mắc trong tháng là 42 cas, tăng 13 cas. Nâng tổng số ca mắc các bệnh truyền nhiễm 4 tháng đầu năm như sau: Bệnh tiêu chảy 1.986 cas, giảm 1.065 cas so cùng kỳ năm 2013; bệnh thương hàn và phó thương hàn 22 cas, tăng 05 ca; bệnh lỵ trực trùng 54 cas, giảm 54 cas ; bệnh lỵ Amip 63 cas, giảm 30 cas; bệnh thủy đậu 189 cas, tăng 135 cas; bệnh quai bị 29 cas, giảm 12 cas; bệnh cúm thường 1.361 cas, tăng 10 cas; Bệnh đau mắt đỏ 156 cas, tăng 100%; bệnh sở mắc 126 cas, tăng 100% so cùng kỳ năm 2013.

            Trong tháng thực hiện được 4.769/15.000 cas xét nghiệm máu, kết quả có 32 cas HIV dương tính,  không có ca chuyển sang AIDS và tử vong. Nâng tổng số ca xét nghiệm máu 4 tháng đầu năm là 10.712 cas, số cas nhiễm HIV là 100 cas, chuyển sang AIDS là 19 ca, tử vong 02 cas.

            d. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong tháng ngành Y tế đã tiến hành lấy mẫu xét nghiệm là 24 mẫu/2.300 (trong đó có 24 mẫu đạt), nâng tổng số mẫu xét nghiệm 4 tháng đầu năm là 343 mẫu đạt 14,91% kế hoạch năm. Test nhanh 64 mẫu trong đó có 61 mẫu đạt (95,31%), nâng tổng số mẫu làm xét nghiệm test nhanh 4 tháng đầu năm là 671 mẫu/2.700, đạt 24,85 % kế hoạch năm.

Khám sức khỏe cho người trực tiếp tiếp xúc thực phẩm, tổng số người khám trong tháng là 1.112/18.000 người đạt 6,17% kế hoạch năm, nâng tổng số người khám sức khỏe 4 tháng đầu năm là 4.168 người đạt 23,15% kế hoạch năm. Trong tháng trên toàn tỉnh không ghi nhận trường hợp ngộ độc thực phẩm nào.

e. Tình hình an toàn giao thông: Theo Ban An toàn Giao thông tỉnh, trong tháng 4 tính từ ngày 16/3/2014 - 15/4/2014) toàn tỉnh đã xảy ra 15 vụ tai nạn giao thông đường bộ (không tính vụ va chạm), làm chết 15 người, bị thương 11 người. So với tháng trước tăng 10 vụ, tăng 11 người chết và tăng 10 người bị thương. So với cùng tháng năm trước tăng 4 vụ, tăng 8 người chết và tăng 6 người bị thương. Tình từ đầu năm đến nay, xảy ra 57 vụ TNGT,  làm 51 người chết, 38 người bị thương, so với cùng kỳ năm trước tăng 10 vụ, tăng 19 người chết và tăng 3 người bị thương. Tình hình tai nạn giao thông xảy ra trong tháng 4 đáng lo ngại, đã tăng cao trở lại trên cả 3 tiêu chí, đa số xảy ra ở nam thanh niên các huyện, trong đó tuyến quốc lộ 80 và QL 63 chiếm 7 vụ, để giảm thiểu vụ TNGT, các ngành chức năng cần tăng cường tuần tra, kiểm soát tuyến quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn huyện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm Luật giao thông, nhất là người điều khiển phương tiện có nồng độ cồn cao, chạy quá tốc độ quy định.

f. Thiệt hại do cháy nổ:Trong tháng tính từ ngày 16/03/2014 đến 15/4/2014 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 8 vụ cháy (Tp. Rạch Giá, An Biên, Gò Quao đều xảy ra 02 vụ, huyện Hòn Đất và Giồng Riềng đều 01 vụ) nguyên nhân do chập điện 04 vụ, 01 vụ do đun nấu, 01 vụ do chập điện và 02 vụ chưa rõ nguyên nhân đang chờ điều tra, ước tính thiệt hại 2,725 tỷ đồng; không có vụ nổ xảy ra. So tháng trước vụ cháy tăng 2 vụ, thiệt hại tài sản tăng 2,07 tỷ đồng. Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh xảy ra 24 vụ, thiệt hại 4,377 tỷ đồng; so cùng kỳ năm trước tăng 6 vụ, mức thiệt hại giảm 3,27 tỷ đồng.

g. Tình hình thiên tai: Đầu tháng 4, tình hình thời tiết Nam bộ chuyển biến khá bất thường, mưa lớn kèm theo gió lốc gây sập nhà, ảnh hưởng cuộc sống của người dân. Tính từ ngày 7/4 đến 11/4, trên toàn tỉnh sập 11 căn nhà và tốc mái 11 căn nhà, tổng thiệt hại khoảng 210 triệu đồng. Các huyện xảy ra thiên tai như: U Minh Thượng  tại xã Hoà Chánh, sập hoàn toàn 04 căn nhà; ấp Vĩnh Trung sập 02 căn, ấp Vĩnh Chánh 01 căn, ấp Chống Mỹ 01 căn; lốc xoáy cũng làm tốc mái 09 căn nhà, hiện Ban PCLB huyện hỗ trợ 04 hộ gia đình bị sập nhà hoàn toàn mỗi hộ gia đình 03 triệu đồng và 02 hộ hộ tốc mái nặng mỗi hộ gia đình 01 triệu đồng để khắc phục khó khăn sớm ổn định cuộc sống;  huyện Gò Quao chiều ngày 9/4 một cơn lốc xoáy quét qua địa bàn xã Thới Quản làm sập hoàn toàn 05 căn nhà, tốc mái 02 căn tại hai ấp Thới Đông và ấp Thới Khương, lốc xoáy làm bị thương 02 người dân, ước tính thiệt hại 100 triệu đồng, hiện Uỷ ban nhân dân xã đang vận động các mạnh thường quân giúp đỡ các hộ gia đình bị sập nhà; huyện Vĩnh Thuận mưa lớn cũng đã làm sập hoàn toàn 02 căn nhà tại ấp Cái Nứa và ấp Bời Lời A của xã Bình Minh, ước thiệt hại 30 triệu đồng./.

Tải về:  - Số liệu kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2014

              - Chỉ số CPI tháng 4 năm 2014

Số lần đọc: 1755
Cục Thống kê Kiên Giang
Tin liên quan